Month: July 2017
Ơn Nghĩa Sanh Thành
– Điều lành cao tột chẳng gì bằng hiếu. Điều cực ác là bất hiếu vậy! – Kinh Nhẫn Nhục –
Nam mô Đại Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát.
Gần đến rằm Vu-lan, là ngày báo hiếu của người con Phật. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, đầu tháng bảy thì Phật-tử tựu về chùa tụng kinh Vu-lan rất đông… để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an lạc cùng quá vãng được siêu sanh lạc quốc. Chúng ta chỉ biết đến chùa tụng kinh và cầu nguyện cho Phật, Bồ-tát nghe, mà không biết tụng kinh cầu nguyện cho cha mẹ mình nghe! Thế nào là tụng kinh và cầu nguyện cho cha mẹ mình nghe? Chính là những hành động cùng lời nói của mình làm sao phù hợp với lời kinh Phật dạy, khiến cha mẹ thấy được, nghe được sanh lòng vui mừng. Đây mới là việc chính gốc cần phải làm. Còn việc đến chùa tụng kinh Báo Hiếu, làm những chuyện bên ngoài thảy đều việc phụ cả. Biết đến chùa tụng kinh cầu nguyện là tất phải y lời kinh mà làm theo thì mới trọn nghĩa báo hiếu vậy.
Kinh Đại Thừa Bổn Sự Tâm Địa Quán, Phật nói: “Bà mẹ hiền thương con, thật không biết lấy vật gì để so sánh cho cân xứng vậy. Từ khi con vào thai, trải qua thời gian mười tháng, những lúc mẹ đi đứng ngồi nằm chịu trăm điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói ra. Muốn những đồ uống ăn hay áo mặc, dù có được mẹ cũng chẳng mừng vì lòng lo lắng không khi nào dứt, chỉ lo nghĩ đứa con sắp sanh sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu khi đẻ khó thời như trăm ngàn mũi dao đồng thời đâm cắt toàn thân; nếu khi sanh đẻ được an lành, bà mẹ với các thân thuộc cùng chung vui sướng in như kẻ nghèo được ngọc báu; sự đau khổ trong mười tháng của mẹ do một tiếng khóc đầu tiên của đứa con khi mới lọt lòng mà nỗi khổ ấy mẹ liền quên mất và vui sướng như nghe âm nhạc. Con lấy nơi bụng ngực của mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế là chỗ dạo chơi và do nước giếng cam lồ nơi ngực mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi! ơn đức của mẹ, núi cao biển sâu cũng chẳng thể sánh kịp. Nếu đứa con nào biết tùy thuận nghe theo những lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái nghịch thời được các chư thiên hộ niệm, phước đức vô cùng. Nếu có kẻ trai lành gái thiện nào muốn trả ơn cha mẹ, trải qua thời gian một kiếp, cứ mỗi ngày ba lần từ cắt thịt nơi thân đem nuôi cha mẹ cũng chưa có thể gọi là đã trả ơn được một ngày vậy”. Vậy chúng ta phải làm gì để gọi là một người con hiếu thảo, đền đáp ân nghĩa sâu nặng của đấng sanh thành và những người thân của mình?
Thông thường chúng ta chỉ biết bậc đại hiếu trong nhà Phật là đức Mục Kiền-liên Bồ-tát, nhưng kỳ thật thì chẳng có bậc chân tu nào mà chẳng tu hiếu đạo cả, đặc biệt là các hàng Bồ-tát. Thí như Địa-tạng Bồ-tát thật là bậc đại hiếu vậy, không chỉ một đời mà nhiều đời. Kinh kể lại chuyện về thủa lâu xa vô số kiếp về trước, lúc đó có Phật hiệu là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Trong đời tượng-pháp, có một người con gái dòng bà-la-môn, người nầy nhiều đời chứa đức sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng, lúc nằm ngồi, chư thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người lại mê tín tà đạo, khinh khi ngôi Tam-bảo. Mặc dầu thánh-nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ, hầu làm cho mẹ sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết, thần hồn sa đọa vào vô-gián địa ngục. Lúc đó thánh-nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhân quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh-nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp. Do lòng lành chí thành hiếu dưỡng nên cảm ứng đạo giao, được đức Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-lai đến chứng minh và phát tiếng trên hư không bảo thánh-nữ rằng: “… ta thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh nên ta đến chỉ bảo. Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi”. Lễ Phật xong, thánh-nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên thánh nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai trải suốt một ngày một đêm liền thấy thân mình đi đến một bờ biển kia, nhập vào cảnh giới của địa ngục, gặp được Vô Độc quỷ vương. Thánh-nữ hỏi thăm tin tức của mẹ mình thì được Vô Độc chắp tay thưa rằng: “Xin thánh-nữ hãy trở về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt-đế-lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ-tát được thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, nhũng tội nhân cũng đều được vui vẻ, đồng được thác sanh cả”. Bấy giờ, thánh-nữ dường chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”. Quỷ vương Vô Độc trước đó nay chính ông Tài Thủ Bồ-tát. Còn thánh-nữ bà-la-môn đó, nay là Địa Tạng Bồ-tát vậy.
Lại nữa, vô lượng vô số kiếp về thuở trước, có đức Phật ra đời hiệu là Liên Hoa Mục Như-lai. Trong thời mạt-pháp, có người con gái tên là Quang Mục hết lòng hiếu thảo, nàng nầy sắm sửa đồ ăn cúng dường La-hán. La-hán sau khi nhập định quan sát, thì thấy bà mẹ của Quang Mục đọa vào chốn địa ngục rất là khổ sở. La-hán xót thương bèn dạy phương chước, ngài khuyên Quang Mục rằng: “Ngươi phải đem lòng chí thành mà niệm đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-lai, và vẽ đắp hình tượng đức Phật, thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi”. Quang Mục nghe xong, liền xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng. Nàng lại đem lòng cung kính, khóc than chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật. Đêm đó nàng chiêm bao thấy thân của đức Phật sắc vàng sáng chói như hòn núi Tu-di. Đức Phật phóng ánh sáng mà bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu đây thân mẫu của ngươi sẽ thác sanh vào trong nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thì liền biết nói”. Sau đó, đứa tớ gái trong nhà sanh một đứa con trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Trẻ đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng: “Nghiệp duyên trong vòng sanh tử phải tự lãnh lấy…. nhờ phước lực của người, nên nay được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm số mạng ngắn ngủi, năm 13 tuổi đây sẽ bị đọa vào địa ngục nữa….” Quang Mục nghe xong than khóc rơi lệ mà bạch cùng giữa hư không rằng: “Nguyện cho thân mẫu tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn 13 tuổi không còn có trọng tội cùng không còn đọa vào ác đạo nữa. Xin chư Phật trong mười phương thương xót chứng minh cho tôi, vì mẹ mà tôi phát nguyện rộng lớn như vầy: Như thân mẫu tôi khỏi hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp không còn thọ những quả báo xấu đó nữa, tôi đối trước tượng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-lai mà phát lời nguyện rằng: Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, v.v… Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh-giác”. Quang Mục phát nguyện xong, liền nghe tiếng của đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-lai dạy rằng: “Nầy Quang Mục, nhà người rất có lòng từ mẫn, vì mẹ mà phát ra lời thệ nguyện rộng lớn như thế, thật là hay lắm. Ta quan sát thấy mẹ nhà người lúc mãn 13 tuổi, khi bỏ báo thân nầy sẽ thác sanh làm người phạm-chí sống lâu trăm tuổi. Sau đó vãng sanh về cõi nước Vô-ưu sống lâu đến số không thể tính kể. Sau rồi sẽ thành Phật độ nhiều hạng người, trời, số đông như số cát sông Hằng.” Vị La-hán phước lành độ Quang Mục thuở đó chính là Vô-tận-ý Bồ-tát. Thân mẫu của Quang Mục là ngài Giải-thoát Bồ-tát. Còn Quang Mục thời là ngài Địa Tạng Bồ-tát đây vậy.
Qua hai câu chuyện trên, quý vị nên nhớ việc cầu cúng của chúng ta, kết quả ra sao là phụ thuộc vào tâm đức, và công phu tu hành của mỗi người. Nếu không có tâm đức, công phu tu hành thì những gì chúng ta cầu nguyện không thể thành tựu được.
Chủ ý của bài viết là bàn đến việc hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, không chỉ con cái hiện tại mà phải nói luôn cả con cái về sau nữa. Bởi sự hiếu thuận của con cái mình có hay không phần lớn quy về sự ảnh hưởng giáo dục của cha mẹ. Theo thuyết nhà Phật thì tất cả đều nằm trong lý nhân quả. Chuyện kết hôn và nối dõi tông đường không phải là việc riêng giữa hai người hay một tổ tông dòng họ nào, mà là sự ảnh hưởng cả một tộc quần xã hội và luôn cả thế giới. Quý vị chớ cho rằng sao có thể nói lời nghiêm trọng đến thế. Thật ra chúng tôi nói lời nầy vô cùng nghiêm túc, chẳng khoa trương và cũng chẳng hù dọa ai cả. Ngẫm kỹ lại mà xem, nếu quý vị có được cuộc sống hòa thuận an vui và gia đình hạnh phúc thì tất nhiên sẽ đào tạo được những đứa con ngoan hiền, học giỏi. Thì sự hữu ích mang lại không riêng gì gia đình quý vị mà luôn cả xã hội tộc quần. Nếu đứa trẻ về sau có khả năng và tước vị có thể làm nên sự ấm no hạnh phúc của muôn dân. Nhưng nếu ngược lại, đứa trẻ trở nên hư hỏng thì chẳng hại riêng gì cuộc đời nó mà còn liên lụy đến bao nhiêu kẻ khác, lại còn để lại ấn tượng xấu cho những thành phần bất hảo noi theo. Nếu trẻ càng giàu có và nhiều quyền lực thì sự ảnh hưởng của nó càng thậm tệ hơn, có thể khiến cho bao nhiêu gia đình nhà tan cửa nát. Quý vị từng đọc và học qua sử lược của các nhà chính trị cùng các vị lãnh tụ của các đảng phái. Có người đem lại sự vinh quang và hạnh phúc cho muôn dân do sự giáo dưỡng ban đầu của họ được gieo trồng bằng những hạt giống lành. Còn có người được đào luyện nên từ những hoàn cảnh và tư tưởng xấu ác thì mang lại sự họa hoạn cho cả một quốc gia và làm chết không biết bao nhiêu người vô tội. Điển tích và lịch sử để lại rất nhiều, quý vị có thể tự đọc tự biết, nơi đây không cần phải gợi lại những việc đau lòng đó.
Trong sinh hoạt đời sống hằng ngày nhất là trong nhà có con nhỏ, ăn nói cần phải cẩn trọng. Người xưa nói: tánh tương cận, tập tương viễn. Những hành động và lời nói của mình vô hình trung ăn nhập khắc sâu vào tâm khảm của trẻ, đôi lúc em bé phát ra những lời nói cùng hành động vô ý thức, nhưng có những lời nói vượt ngoài giới hạn trẻ, và có chiều hướng xấu, chúng ta không thể đứng nhìn và cười cho là vô hại, cho rằng trẻ chỉ bắt chước không biết gì, nhưng đó là những mầm mống mà chúng ta đã gieo trồng vào tâm thức trẻ, tương lai khó mà suy lường được. Những lúc bắt gặp những trường hợp như vậy chúng ta trước hết phải cảnh tỉnh lại mình, khi có mặt trẻ cần có những lời nói và hành động ôn hòa, nhã nhặn, lễ nghĩa mang tính cách giáo dục để cho con bắt chước. Đừng cho rằng trẻ chẳng biết gì. Bởi ai cũng biết rằng tâm trí trẻ như tờ giấy trắng, chúng ta vẽ như thế nào thì tâm thức trẻ sẽ biến thành như vậy. Những lời nói cùng hành động chúng ta làm mỗi mỗi đều được ghi nhận in sâu vào tâm thức trẻ. Nên khi dạy con cái không nên có những lời nói thô lỗ và hành động bạo lực. Như chuyện kể về cuộc đời của ngài Mạnh Tử. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị. Bà sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Nhờ đó mà sau này ông mới có thể kế thừa tư tưởng của Khổng Tử, và còn phát triển và hoàn thiện thêm học thuyết của họ Khổng cho thích ứng với tình hình thực tế đương thời. Về sau, ông được xem là tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm Á Thánh Mạnh Tử. Sự thành tựu và công lao đó phải đâu chẳng phải nhờ Mạnh mẫu Chương thị.
Không có người con nào mà không thọ nhận sự giáo dục của cha mẹ. Nếu là gia đình đạo Phật, quí vị phải dạy con cái giáo lý nhân quả. Phật dạy: phàm làm việc gì phải nghĩ đến hậu quả của nó. Biết đó là tác nhân xấu sẽ đưa đến quả không tốt, mình răn dạy con đừng làm việc đó, nếu gây tác nhân xấu sẽ bị quả báo xấu. Đó là một cách giáo dục, cha mẹ đã giáo dục mình, mình giáo dục lại người sau. Đây gọi là gia giáo. Tục ngữ có câu: “công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.” Phận làm con không thể nào quên ơn đức của cha mẹ, mà sống thật hiếu thuận để hy vọng đền trả phần nào thâm ân như trời bể vậy.
Chúng ta ai cũng muốn con cái mình sau này đều ngoan hiền, dễ thương và có tương tai tốt đẹp. Những điều này chẳng phải chỉ mong cầu suông mà được, tất phải cần có sự giáo dục và giúp đỡ của cha mẹ. Đào tạo một con người từ sơ sanh đến trưởng thành thông thường phải trải qua bốn trường lớp hay bốn nền giáo dục: 1.- gia đình giáo dục; 2.- học đường giáo dục ; 3.- xã hội giáo dục ; 4.- tôn giáo giáo dục. Tuần tự theo thứ lớp thì gia đình giáo dục là điều tiên quyết, bởi trẻ chào đời và trực tiếp đón nhận sự giáo dục của gia đình là trước hết. Vậy thì gia đình giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự thành bại của một con người. Tục ngữ có câu: sai một ly là đi một dặm. Cho nên nền tảng gia đình giáo dục là căn bản của căn bản, là nền tảng sâu đậm nhất của trẻ xuyên suốt cả cuộc đời. nên khi dạy trẻ không thể không cẩn thận. Do bài viết có hạn không thể phân tích kỹ lưỡng. Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta phải nói đến cá tánh riêng của bậc làm cha mẹ đã được giáo dưỡng như thế nào? thứ nữa là lúc hòa hợp tâm lý cùng tâm tình của họ ra sao? Và điều quan trọng hơn nữa là thời kỳ thai nhi giáo dục. Xuyên suốt mười tháng thì tâm lý và sức khỏe của người mẹ phải ổn định vui vẻ. Người xưa quan niệm: muốn con cháu mình tương lai dễ thương thì trong lúc đang mang thai nhất định chớ để bà mẹ có những tâm lý sầu khổ buồn lo, cho đến sanh lòng bực dọc, mà phải luôn làm sao tìm cách giúp cho bà mẹ được tươi vui, lành mạnh, sức khỏe kiện khang và hằng ngày thường có nhiều thời gian để tâm tình cùng dạy dỗ thai nhi. Vẫn biết với xã hội hiện tại quá phức tạp, và nhất là đất nước phương tây quá ư nặng về chạy đua vật chất này lại thêm nhiều chướng nạn. Đây quả thật là một điều bất hạnh, và cũng là xu hướng và đà xuống dốc đạo đức con người sắp đi đến cùng cực vậy. Nay chỉ nói đến những ai còn có lòng và biết nghĩ đến tương lai của con mình, nhất là những đôi vợ chồng son nên học hỏi một ít kinh nghiệm của các bậc đi trước và nên tìm đọc những sách giáo khoa lành mạnh về việc sanh nuôi dạy trẻ. Còn việc sau khi cho trẻ ra đời thì Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện dạy rõ: “Nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sanh ra đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ bàn nầy, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của ngài Địa Tạng Bồ-tát đủ một muôn biến. Được vậy thì đứa trẻ hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây lấy tội vạ chi cũng được thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn”.
Trở lại vấn đền bổn phận làm con, chúng ta không thể viện cớ để đỗ lỗi hết lên cho gia đình, xã hội hay hoàn cảnh đã đào tạo tôi trở thành con người như thế. Chúng ta phải biết phục thiện. Hồi còn nhỏ, thân phụ của chúng tôi hay nhắc đi nhắc lại câu: “làm người phải biết phục thiện.” Lúc tuổi còn trẻ, tánh tình xốc nổi, nghe nhiều phát chán vì chẳng hiểu gì, đến nay phải trải qua hơn hai mươi năm va chạm với cuộc đời mới thể nghiệm được cái giá trị bên trong của nó. Làm người mà không biết phục thì là thứ bỏ đi. Bởi không phục thiện tức không thể hay không chịu học theo lời hay lẽ phải, không tiếp nhận sự giáo dục, chỉ thích làm càn bướng theo tánh khí phiền não của mình. Kết quả gặt được nhất định phải đắng cay. Phàm là người chung quy rồi ai cũng phải học cả. Người khôn lanh trí tuệ thì sẽ chụp lấy cơ hội học hỏi và tập tành theo khi hoàn cảnh và sức khỏe còn tốt. Kẻ cố chấp hơn chút thì phải đợi đến khi u đầu chảy máu rồi mới chịu tỉnh ngộ, họ sẽ phải ở trong hoàn cảnh khổ đau mà học tập. Còn kẻ vô trí thì cho đến chết cũng không chịu phản tỉnh. Theo tinh thần Phật giáo thì hạng này cuối cùng rồi cũng phải học. Nhưng phải trải qua nhiều kiếp lâu xa trong khổ đau cùng cực mới chịu phản tỉnh, rồi mới chịu học hỏi theo. Cái giá phải trả thật quá đắt cho những bài học hết sức bình dị. Thật đau xót thay!
Trong nhân gian có bài hát rất quen thuộc được nhiều người biết đến. Mọi người thường hát cho nhau nghe, và cũng hát cho tự mình nghe, để ngâm nga, ca tụng và để thưởng thức âm điệu, cùng ý nghĩa thâm thúy bên trong của nó. Nhưng lại không có được nhiều người làm theo những gì bát hát đã nói, để khiến cho bài hát trở nên trống rỗng, hay trở thành niềm ân hận hay nuối tiếc cho những ai đến khi cha mẹ chẳng còn mới vỡ lẽ, thấm thía hiểu ra được thì đã muộn mất rồi “…Công đức sanh thành, người hỡi đừng quên…” chúng ta căn bản chẳng quên, chỉ do công việc hằng ngày bận rộn đâm ra không nhớ. Không chỉ riêng một lý do này mà còn nhiều lý do khác nữa, nhưng cho dù là lý do gì đi chăng nữa cũng không được phép quên mới đúng. Bởi tuy rằng chẳng quên nhưng trong cuộc sống đời thường lại không bao giờ nhớ thì cũng chẳng khác gì là đã quên… đã vậy, chẳng những tự mình không nhìn nhận sự thiếu sót của mình mà đôi lúc còn viện lấy đủ thứ lý do “thật chính đáng” để biện luận cho mình và lắm kẻ còn đòi hỏi ngược lại làm tệ hơn, đây là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến những người con bất hiếu. Nếu quý vị thật hiểu được lòng bao dung và tâm tình của những bà mẹ thì không lý do gì quý vị có thể quên công đức sinh thành.
Quý vị hãy nghe chuyện kể về tấm lòng của một bà mẹ thật cảm động. Bà có 3 người con trai, người nào cũng tài tuấn. Nhưng đến khi trưởng thành và lập gia thất thì mỗi người tùy theo phước duyên của mình mà có cuộc sống khác nhau. Ba người con đều hiếu thảo nên phân chia bổn phận lo chu cấp nuôi dưỡng mẹ già. Lúc đến sống với người con cả, do anh này khá giả nhất nên phụng dưỡng mẹ được chu đáo. Lúc đến ở với người con thứ hai, anh này do làm quan nên có tiền, có xe, lo lắng cũng hoàn toàn tốt đẹp. Đến người con thứ ba thì túng thiếu, nhưng anh ta vẫn cố gắng hiếu thảo trong khả năng của mình, nên không thể bổ dưỡng đầy đủ cho mẹ. Mỗi lần từ người con này đến người con kia bà mẹ đều được cân đo, xem ba cậu con trai lo cho mẹ có chu đáo không. Kết quả thì từ anh cả đến anh hai thì cân đo đều tốt, qua người con thứ ba muốn cân đo cho tốt bà mẹ phải bỏ một cục chì trong túi áo. Vì ở với cậu thứ ba nghèo thiếu nên bà ốm gầy, nhưng thương con, sợ các anh phàn nàn quở trách nên bà mẹ phải làm như thế. Từ đó trong nhân gian mới có câu “cha mẹ bù chì” là xuất phát từ tích truyện trên, để nói lên tấm lòng của người mẹ. Người mẹ suốt đời sẵn sàng bảo bọc, che chở cho con.
Chúng ta thường nói: Đạo hiếu là đạo Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Để làm rõ hơn nghĩa này, chúng ta hãy đi vào một trong nhiều câu chuyện mà đức Phật đã khai môn phương tiện dạy cho người sau về hạnh hiếu như trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. “Khi vua Tịnh Phạn lâm bệnh nặng. Ngài muốn thấy mặt các con một lần chót. Bấy giờ đức Phật ở tại thành Vương-xá cách chừng năm mươi do tuần. Phật mới bảo A-nan, Nan-đà và La-vân liền dùng thần túc mà về vương cung. Rồi ngài phóng hào quang sáng rực soi khắp thân phụ-vương thì bệnh tình được thuyên giảm chút ít; và Ngài lại lấy tay rờ lên trán phụ-vương mà an ủi rằng: phụ-vương là người tu tịnh giới, đã diệt sạch tâm phiền-não cấu nhiễm; nay phụ-vương nên vui mừng và nghĩ nhớ lời kinh pháp. Đức phụ-vương nghe nằm chắp tay đem tâm mà kính lễ! Liền lát sau ngài băng hà. Các Thích-tộc và triều đình lo việc tẩm liệm vào quan tài và đem quan tài tôn trí trên tòa sư tử. Đức Phật và ngài Nan-đà nghiêm chỉnh đứng trước linh xa; ngài A-nan và La-vân đứng sau linh xa. A-nan quỳ thưa Phật rằng: cho tôi xin gánh quan tài bá-phụ; La-vân cũng xin với Phật cho mình gánh quan tài ông nội. Đức Thế-tôn nói lời an ủi: con người sau nầy đều là hung bạo, bất hiếu chẳng biết trả ơn dưỡng dục của cha mẹ, ta vì chúng sanh bất hiếu ấy mà bày ra phương pháp để giáo hóa. Rồi Như-lai đích thân gánh quan tài phụ-vương và tự tay bưng lư hương đứng trước mà đi đến nơi Lăng-mộ! Đức Như-lai kiếp trước ở trong sanh tử, thời gian như vậy nhiều như số vi trần không thể nghĩ bàn được và trong hình loại tất cả chúng sanh chịu đủ mọi thân hình. Vì chịu nhiều thân hình nên tất cả chúng sanh đã từng làm cha mẹ đức Như-lai, và Như-lai cũng đã từng làm cha mẹ tất cả chúng sanh. Vì từng làm cha mẹ tất cả chúng sanh nên thường tu những khổ hạnh khó tu, hay bỏ những vật khó bỏ. Siêng tu tinh tấn, trì giới, bố-thí, đa văn, thiền định, trí huệ cho đến đầy đủ tất cả muôn hạnh, chẳng nghĩ chẳng thôi, tâm không mệt mỏi. Vì hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn trả đức nên ngày nay được chóng thành tự quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác”.
Lời nói của Phật là ngôn giáo, mà đời sống của đức Phật chính là thân giáo. Thân giáo quan trọng hơn tất cả. Có nhiều việc mình nói người khác không tin hiểu nhưng khi mình hành động thì sẽ cảm hóa được người khác. Cho nên dạy con cái, phần thân giáo không thể thiếu. Sự thành bại tương lai của con cái về sau được đặt để trên nền tảng căn bản của gia đình giáo dục, mà trực tiếp không ai hơn hết là bậc làm cha mẹ. Khi vào học đường biết chăm chỉ học hành, làm người học trò giỏi là do việc dạy con ngoan nên không bị bạn bè xấu rủ rê lôi kéo. Lớn lên bước vào trường lớp giáo dục của xã hội, không bị các thành phần xấu, những ô nhiễm của lợi danh mê hoặc cũng nhờ vào công gia đình giáo dục vững chắc. Cả cuộc đời có được nếp sống chơn thiện mỹ tuệ thảy đều quy về công ơn giáo dưỡng ban đầu của bậc làm cha mẹ. Thế mới biết được, ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ còn hơn trời cao biển rộng sông dài, không chi đền đáp đặng. Nói chi đến công ơn thầy tổ khi bước vào ngưỡng cửa của tôn giáo giáo dục. Nên Kinh Bất Tư Nghì Quang nói: Cung phụng đồ ăn uống và châu báu chưa đủ trả được ơn cha mẹ. Hướng dẫn cha mẹ xoay về chánh pháp mới là báo hiếu.
Hy vọng bài viết ngắn ngủi này có thể mang lại một chút gì cho những ai đọc được nó, tự mình phản tỉnh, thầm hỏi lại mình đã làm được gì cho mình để thoả mãn được kỳ vọng của cha mẹ! Mình đã làm được gì giúp cho cha mẹ có được cuộc sống thoải mái ổn định! Và mình đã sống ra sao có khiến cho cha mẹ không lo lắng cho mình chăng? Hơn thế nữa là mình đã làm được gì khiến cho cha mẹ vui lòng chăng? Những điều trên đây nếu hay làm được thì quả thật là xứng đáng người con hiếu thảo. Thực tế hơn một chút, Kinh Lễ Lục Phương nói con thờ cha mẹ phải có năm điều:
- Phải lo sanh kế.
- Dậy sớm sai khiến tôi tớ lo làm cơm nước cho kịp thời.
- Chẳng nên làm cha mẹ lo thêm.
- Phải nhớ ơn cha mẹ.
- Khi cha mẹ có bệnh, phải lo sợ liền mời thầy chữa thuốc kịp thời.
Lại nữa, Kinh Thiện Sanh thì nói đạo làm con đối với cha mẹ có năm việc:
- Lo gia sự
- Lo trả nợ nần
- Phải hiểu lời dạy
- Cúng dường
- Làm sao cho cha mẹ vui
Nếu ai chưa từng làm thì hãy bắt đầu hôm nay và bây giờ, ai đã làm rồi mà chưa tròn thì cố gắng làm thêm nữa. Ai đã làm được rồi thì nên phát triển và khuyến tấn mọi người cùng thực hành hiếu đạo. Kinh Đại Tập nói: “Gặp đời không có Phật, nếu biết khéo phụng sự cha mẹ tức là phụng sự Phật vậy”. Nhưng cung dưỡng cha mẹ phải biết có ba việc: 1.- dưỡng phụ mẫu chi thân ; 2.- dưỡng phụ mẫu chi tâm ; 3.- dưỡng phụ mẫu chi chí. Dưỡng phụ mẫu chi thân là chăm lo sức khỏe, sớm tối thăm hầu, lo việc ăn uống nóng lạnh. Dưỡng phụ mẫu chi tâm là luôn để ý đến tâm tình của cha mẹ, luôn làm cho cha mẹ vui lòng và dưỡng phụ mẫu chi chí thì phải khéo biết thời khiến cho cha mẹ thoát ra biển khổ luân hồi. Học Phật Hành Nghĩa nói: người học Phật rồi thì mỗi khi thấy cha mẹ nên giữ thân ngồi ngay đứng thẳng. Thường niệm kệ rằng:
Hiếu sự phụ mẫu
Đương nguyện chúng sanh
Thiện sự ư Phật
Hộ dưỡng nhất thiết
tạm dịch:
Hạnh hiếu hầu cha mẹ
Nên nguyện cho chúng sanh
Khéo phụng sự chư Phật
Cung dưỡng giúp tất cả.
Lúc phải thời thì nên đem nhân duyên Phật-pháp ra mà trình bày. Luận Tỳ-na-da nói: “Nếu cha mẹ không tin, khuyên phát khởi lòng tin ; nếu chưa có giới pháp, khuyên thọ trì giới pháp ; nếu tánh tình bủn xỉn, khuyên tu hạnh bố-thí, nếu không trí tuệ, khiến kia tu trí huệ. Làm con được như thế, mới được gọi là trả ơn.”
Mong lắm thay!
– Giữa thu Đinh Hợi, tháng 8 năm 2007 –
Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm
Đầu Năm Heo Nói Chuyện Bát Giới
Cây cối, đất đá rơi đổ ầm ầm, khói lửa mịt mùng, động Vân Sạn như muốn nổ tung. Hai lão quái vật đánh nhau đến trời long đất lở, lão Trư bị Tôn Hành Giả đánh cho tơi bời hoa lá. Đến khi bị hàng phục mới vỡ lẽ ra đều là người một nhà nên dẫn về ra mắt Đường Tam Tạng. Sau khi nghe hết duyên do sự tình, thầy trò Tam Tạng vui mừng bèn cho thiết bàn hương án vọng bái lễ tạ đức Quan-thế-âm Bồ-tát. Lạy tạ xong quay lại bảo:
– Đã theo thiện quả và xin làm đồ đệ của ta, vậy ta đặt cho một pháp danh để sớm tối gọi tên cho tiện.
Lão Trư nói: thưa sư phụ, con đã được bồ-tát xoa đầu thụ giới, đặt cho con pháp danh là Trư Ngộ Năng rồi!
Tam Tạng cười bảo: Tốt! tốt! sư huynh con là Ngộ Không, con là Ngộ Năng, cũng đều thuộc tông phái trong pháp môn ta cả.
Ngộ Năng nói: Thưa sư phụ! Con đã nhận giới hạnh của Bồ-tát đoạn tuyệt với ngũ huân, tam yếm[1], ở nhà với bố vợ ăn chay giữ giới, không bao giờ ăn mặn, nay gặp sư phụ con xin phá giới một bữa.
Tam Tạng bảo: Không được, không được! con đã không ăn mặn rồi, vậy thì ta đặt cho một tên nữa là Bát Giới nhé!
Chép một đoạn Tây Du thay cho phần mở đề!
*
* *
“Chúng ta học Phật mục đích quan trọng và lớn nhất chính là sự giải thoát sinh tử.” Đây là câu nói rất thiết yếu mà tất cả người học Phật, tu Phật thảy đều nên biết, ghi nhớ nằm lòng nhất là hàng Phật tử tại gia. Còn hàng xuất gia tất nhiên tự biết. Vì sao? Vì xuất gia có nghĩa là xuất thế tục gia, xuất phiền não gia, xuất tam giới gia. Thế tục gia đã lìa rồi, tiến đến phải lìa phiền não xuất tam giới. Nếu chẳng thế thì chẳng gọi là hàng xuất gia. Bài viết này chúng tôi chỉ hướng đến hàng Phật-tử tại gia. Do vì hàng Phật-tử tại gia trăm công ngàn việc, lo toan đủ điều cho sự nghiệp, công danh, gia đình và cuộc sống. Tuy cũng muốn học Phật cho tốt, cho rốt ráo nhưng sự đời lại chẳng chìu lòng người. Cũng vì ưu tư và lo lắng này mà đức Phật chế ra pháp thọ Bát Quan Trai Giới trong lục nhật trai, là để cho hàng tại gia nhị chúng gieo trồng căn lành giải thoát, thú hướng xuất ly, nên đặc biệt chỉ bày pháp môn hy hữu, phương tiện tối thắng này. Kinh Xử Thai nói: “Bát quan trai giới là cha mẹ chư Phật.” Thái Hư đại sư nói: “Đây là Phật vì cư sĩ tại gia chế ra giới điều để luyện tập ngắn hạn đời sống xuất gia,” mong chư vị thọ giới không nên xem thường đó vậy. Thọ Bát Quan Trai chắc quý vị chẳng còn lạ gì nếu ai đã từng thọ giới tu trì. Nhưng ý nghĩa có thật hiểu hay chưa? Khó mà nói chắc được! Bởi vậy, vì muốn những ai đã thọ, chưa thọ và sẽ thọ bát quan trai giới được lợi ích mà không ngại phần kiến văn hẹp hòi của mình giới thiệu với quí vị.
Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang: Bát quan trai giới còn gọi Trưởng dưỡng luật nghi, cận trú luật nghi, bát giới, bát chi trai giới, bát phần trai giời, bát giới trai, bát trai giới, bát cấm, bát sở ưng ly. Bát quan trai giới là tám pháp trai giới:
- không sát sinh.
- không trộm cắp.
- không dâm dục.
- không vọng ngữ
- không uống rượu
- không dùng hương hoa trang sức nơi thân, không xem nghe ca múa
- không ngồi nằm giường rộng cao đẹp
- không ăn phi thời.
Trong bát giới thì 7 phần trước là giới, một phần sau không ăn phi thời là trai, hợp lại gọi là bát quan trai giới. tám pháp này Đức Phật chế định mỗi tháng giữ 6 ngày trai tức mỗi tháng vào ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29,30 (nếu tháng thiếu thì 28, 29 tính theo Nông Lịch).
Chữ Bát là số mục, vì khi thọ giới này, để phòng và ngăn chặn tám việc, nên gọi là bát chi) hay bát phần, tức tám phần ngăn che này. Trong Phật pháp: giới có nghĩa là ngừa quấy ngăn ác (phòng phi chỉ ác). Quan: giải theo chữ có nghĩa là đóng, hàm nghĩa là người thọ giới rồi tức là đóng cánh cửa của tam ác đạo, không còn rơi vào trong ba đường dữ nữa. Chúng ta đóng bằng cách tu các thiện pháp, tạo bao việc lành. Trai có nghĩa thanh tịnh bởi vì trai giới có thể giúp cho tâm được thu nhiếp tịch tĩnh, đoạn được hết mọi tội lỗi, phát sinh được sức phòng hộ sáu căn. Trai theo Ấn độ có nghĩa Bố-tát, hoặc Bao-sà-đà cũng có nghĩa là tịnh trụ và trưởng dưỡng. Hàng cư sĩ tại gia vào các ngày lục trai, thọ bát quan trai giới để trừ khử dần các ác pháp, đồng thời tu tập thêm các pháp lành, khiến thiện pháp tăng trưởng, ác pháp giảm dần, nhờ vậy thân tâm mới trụ nơi thanh tịnh, trọn ngày không trụ trong phiền não và tội nghiệp, nên gọi là tịnh trụ. thứ nữa, hàng tại gia học Phật, nhờ thọ bát vào các ngày lục trai, khiến thiện pháp mỗi ngày tăng trưởng, với sự tu tập không ngừng ấy, nên công đức không ngừng trưởng dưỡng, vì vậy gọi là trưởng dưỡng.
Bát quan trai giới còn gọi là Cận-trụ luật nghi, hay Trưởng-dưỡng luật nghi. Cận-trụ luật nghi: là do thân cận Tam Bảo, an trụ ở Đạo tràng của Tam-bảo, chịu sự huân tập của tư tưởng Tam bảo:
1.- Cận thời nhi trụ (ở thời gian ngắn) chỉ cho thời gian ngắn tạm thọ giới một ngày đêm.
2.- Cận trụ thọ giới trụ: bát quan trai giới thời gian tuy ngắn, nhưng rất gần với giới xuất gia một đời nên gọi là cận trụ luật nghi.
3.- Cận A-la-hán trụ: thọ bát quan trai giới, học tập đời xuất gia đó là hành môn của A-la-hán. Tuy hôm nay còn là một kẻ phàm phu, song nhờ thân cận chỗ A-la-hán, cùng A-la-hán gần gũi ngày đêm, thanh tịnh thân tâm, phòng hộ giữ mình, tuy chưa xuất ly tam giới ngay được, nhưng nhờ nương công đức trai giới này, gieo trồng hạt nhân xuất thế thù thắng, tương lai chắc chắn được giải thoát.
Chúng ta đã hiểu sơ về ý nghĩa của Bát quan trai giới rồi, tiến thêm bước nữa chúng ta đi sâu vào phần duyên khởi cùng lợi ích của Bát chi giới này. Phật giáo sở dĩ có chế độ xuất gia, đức Phật lập Tăng đoàn, mục đích để cho chính pháp mà Như-lai cần khổ chứng đắc được tiếp nối lâu bền ở thế gian. Trong kinh Phật thường thuyết phải tu tập suốt ba đại a-tăng-kỳ kiếp lâu xa mới thành Phật được. Đức Phật hiểu rõ căn lành giải thoát xuất thế không thể gieo trồng trong chốc lát, mà phải huân tập lâu dần mới thành tựu nên tạo ra pháp Bát quan trai này. Trong Luận Bồ-tát Bổn Sinh nói: “Lợi ích của xuất gia cao hơn cả Tu-di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Sở dĩ như vậy là do xuất gia mới thành phật, ba đời chư Phật chưa có vị nào thành Phật mà không do nhờ xả gia xuất gia cả”. Như Kinh Hiền Ngu Nhân Duyên thuyết: “Cho người xuất gia hoặc tự xuất gia, hoặc già hoặc trẻ, phúc đức vô cùng”. Bằng ngược lại, chúng ta tự mình đã chẳng thể xuất gia, chẳng khuyên người xuất gia mà có ý làm trở ngại thì quả báo phải chịu như Kinh Xuất Gia Công Đức nói: “Nếu có người phá hoại nhân duyên xuất gia của người khác, tức là cướp đoạt kho báu vô tận phúc thiện, hủy hoại nhân của 37 phẩm trợ đạo ở nơi 4 đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhân) sinh ra thường đui, người này không có ngày giải thoát”. Phật pháp dĩ nhiên chẳng kêu gọi hết cả mọi người phải xuất gia, chỉ có điều hoàn cảnh thanh tịnh và phương thức sinh hoạt của đời sống xuất gia thích hợp với những người tìm cầu xuất ly và tiến tu giải thoát.
Chiếu theo lịch sử thì tập xưa ở Ấn Độ đã có phép tu tương tợ như pháp Bát quan trai giới. Do xưa kia lúc cõi Ta-bà này mới thành lập Ác quỷ lộng hành trong những ngày lục trai trong tháng nên đã chế ra phép nhịn ăn sáu ngày này để tránh tai họa. Theo Kinh Tứ Thiên Vương thì nói: “Sở dĩ đức Phật cho thọ bát quan trai giới vào lục nhật trai, bởi vào các ngày này, chư thiên thường đến nhân gian để xem xét thiện ác. Nếu thiên hạ làm ác nhiều thì trừng phạt, gây cho nhân loại nhiều điều nghịch ý, nếu thiện nhiều thì ủng hộ, bằng cách cho nhân loại nhiều việc tốt lành”. Luận Tỳ-bà-sa quyển 41 nói: “Vào các ngày trăng sáng, tối, thường ngày 8 hoặc 14, hoặc 15, chư Thiên 33 từng trời tập họp ở Thiện Pháp Đường luận kể thế gian bao nhiêu thiện ác, thấy người làm thiện thì ủng hộ, thấy người làm ác thì hủy đi”. Kinh Địa Tạng nói: “Mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ”. Vì thế mà chúng ta thường trì trai giữ giới tu tập làm lành trong sáu ngày, hay mười ngày này. Những ai đã phát tâm thọ trì tám giới, thì phải thời thời khắc khắc thủ hộ tâm mình, vì tâm là đầu mối của tội họa, tội ác nào cũng do tự tâm ra, nếu khéo hành đúng tinh thần tám giới, luôn luôn phòng giữ tự tâm, ắt không phát triển ác nghiệp nữa, nên gọi là bố-tát hộ. Thọ trì bát quan trai giới, dĩ nhiên không chỉ chuyên phòng hộ nội tâm, mà phòng cả thân khẩu nữa, nên Cổ Đức thường bảo: “nơi tâm gọi hộ, nơi thân khẩu gọi giới.” Điều quan trọng nhất khi thọ giới là phải phát tâm rộng lớn, có phát tâm rộng lớn thì tuy giữ giới một ngày đêm vẫn đạt được phúc đức thù thắng. Có nghĩa là khi các vị phát tâm thọ bát quan trai giới không nên vì công đức hay giải thoát riêng mình, mà nên vì tất cả chúng sinh cùng thọ giới hạnh này. Không xem công đức thọ giới là của riêng mình, mà coi như của chúng sinh chung có, nguyện cùng chúng sinh đồng hướng đến quả vô thượng Phật đạo, như vậy mới có thể đạt được công đức thù thắng. Ngẫu Ích đại sư từng nói: “Chỉ cần nhân duyên của một ngày đêm bát quan trai tất được đầy đủ kho báu hết thảy hằng sa số vô lượng công đức của Phật-pháp.”
Đến đây, quý vị đã biết sơ về duyên do cùng lợi ích của bát quan trai giới rồi. Bây giờ đi thẳng vào phần thọ giới và thực hành giới. Chúng ta phát tâm học Phật đương nhiên không phải để thỏa mãn tánh hiếu kỳ, làm tăng kiến thức, cầu tiêu khiển, mà để mong cầu thánh quả, chứng Niết-bàn giải thoát. Song thánh quả không phải chỉ do mong cầu suông mà được, mà phải cầu bằng sự thực hành thiết thật chính là đoạn ác và tu thiện, nếu ác pháp không đoạn trừ, thì thiện pháp khó mà tu tiến được. Kinh Lục Đà la ni nói: “Các ma nghiệp ở nơi ta, nếu không sám hối trước, ắt không sao phát tâm duyên Vô-thượng giác, cho nên mọi tội lỗi cần phải sám hối trước”. Kinh Tăng A Hàm nói: “Nếu thọ bát quan trai, trước tiên phải sám hối các tội tạo từ trước, sau đó mới thỉnh thọ giới pháp”.
Các pháp sự trong Phật giáo phần đông đều bắt đầu bằng lễ sám hối, đặc biệt là lúc quy y và thọ giới, lại càng không thể thiếu phần sám hối. Có điều khi cử hành pháp sám hối, phải chí thành tận đáy lòng quyết cải đổi các lỗi xưa, triệt để tịnh hóa thân tâm, mới tiêu trừ được mọi nghiệp chướng từ vô thủy. Nếu chỉ bằng hình thức bề ngoài sám hối, thì không sao tiêu trừ được tội nghiệp. Hết thảy tội chướng như ngôi nhà tối ngàn năm, tàm quý sám hối như ngọn đèn chiếu phá bóng tối ngàn năm. Cho nên quý vị thọ giới nên sinh tâm đại tàm quý chân thật sám hối, chí thành lễ Phật, chẳng những mọi sự đều thành tựu, mà ba nghiệp đều được thanh tịnh. Phàm phu chúng ta thường bị phiền não vọng khởi, không chế ngự được mình mà phạm giới, khiến thân tâm ô nhiễm. Muốn khôi phục sự thanh tịnh ắt phải hành pháp sám hối mới khỏi bị chướng ngại khi tu học Phật. Phơi bày các lỗi của mình, bộc bạch các tội đã gây, không dám che đậy chút nào, như vậy rồi còn phải đoạn trừ tâm tương tục, ăn năn chán ghét các tội lỗi tự gây, tuyệt đối xả bỏ không bao giờ tái phạm, đó mới là điểm quan trọng nhất của pháp sám hối. Ấn Thuận luận sư nói: “quy tắc của giới luật không ở nơi một người, ở nơi đại chúng… người học nên theo chân tinh thần của cổ thánh, phát lồ tội lỗi, không dám che dấu, không dám tái phạm, để thân tâm được thanh tịnh, thừa thọ vô thượng pháp vị.” Công khai bộc bạch hết mọi tội lỗi, điều này không phải dễ làm, bởi một khi nói ra lỗi lầm sẽ làm mất thể diện, hại danh dự, vì vậy mà kẻ phạm tội thì nhiều, người nhận tội thì ít. Cũng chính vì nguyên nhân này mà đành chịu đắm mình mãi trong hố sâu tội lỗi, không chịu thoát ra. Đại sư Linh Phong Ngẫu Ích rất khẩn thiết bảo với những người không dám phát lồ tội lỗi: “Người ta khi tạo tội, thực đang làm ác mà không biết xấu hổ. Nay phát lồ trước mọi người, đó là điều thiện, lại cho là xấu hổ. Cam lòng giữ ác mà tránh điều thiện, dần dà thành ác trong ác, vĩnh viễn không có ngày ra, điên đảo ngu si, còn có gì hơn đây nữa?” Thật là lời nói chí thiết chí tình, con người ta khi không làm chuyện ác thì muốn mọi người biết, nhưng khi làm ác, do vì phiền não xung động, chẳng còn biết xấu hổ nên có can đảm làm quấy. Đợi đến lúc chuyện ác đã rồi, biết rõ đó không phải là việc đúng, nhưng vì sợ mất thể diện, nên che dấu không chịu tiết lộ với ai. Có biết đâu, vì không dám phơi bày tội ác, nên cội gốc tội ác của họ không sao thanh tịnh được, như vậy chẳng phải như đại sư Ngẫu ích đã nói: điên đảo ngu si hay sao? Nhưng ở thế gian này, chuyện gì nói cũng dễ, làm mới khó, nhất là việc công khai sám hối này lại càng không đơn giản. Hy vọng mọi người đều là những viên tướng dũng mãnh trong công cuộc tiên phong cải đổi lối tư tưởng tệ hại này.
Trong pháp Sám-hối phải biết lấy tàm quý làm thể, vì vậy có thuyết cho sám gọi là tàm, hối gọi là quý. Tàm là xấu với người, quý là hổ với mình. Tàm quý thực sự mạnh và đủ sức, chính là tâm tàm quý đối với tự thân. Tức chúng ta niệm niệm tàm quý, tức chính là niệm niệm tu trì trang nghiêm thanh tịnh, đâu đến nỗi phạm giới hay tạo ác, và căn lành công đức của ta trong niệm niệm cũng được tăng trưởng. Cho nên người học Phật phải coi trọng pháp này. Phải biết Phật với ta vốn đồng một tánh giác mà sao ta hiện tại lại đến nỗi như vầy?! một niệm tàm quý tâm này hiện khởi liền lập chí sửa đổi con người, không chỉ sửa sai mọi lỗi lầm trong quá khứ, còn quyết tâm không tái tạo mọi ác nghiệp, nhờ vậy dần dà khai mở giác tính sẵn có nơi mình đồng Phật không khác. Đồng thời phải biết, các tội ác ẩn dấu trong tâm, nếu không do tâm tàm quý khởi sức sám hối, ắt nội tâm không bao giờ được an lạc. Nên trong Giới Kinh nói: “có tội nên sám hối, sám hối ắt thanh tịnh.”
Theo đúng pháp thọ bát quan trai giới thì phải thọ từ sáng sớm trong ngày là đúng pháp nhất, nếu để sau ngọ mới thọ thì không đắc giới. Nhưng trong Bà Sa Luận lại phương tiện nói: “Người phát tâm thọ giới, giả sử nghĩ rằng ngày mai mình phải thọ giới, nhưng đến lúc đó, tự nhiên gặp chuyện phải lo, quên béng mất bát quan trai, cho đến khi xong việc về nhà dùng bữa mới chực nhớ lại, vội đến thọ bát quan trai giới cũng có thể được. Nhưng điều này không những không thể coi là đương nhiên, mà phải sinh tâm tàm quý, cho rằng mình quá lơ là, từ nay về sau không được làm thành lệ”. Phải biết trường hợp trên là trường hợp vạn bất dĩ lỡ một lần thôi. Còn như trường hợp trong vùng lân cận không có Tăng-già thì có thể đối trước Phật, tự nguyện thọ hành bát giới, vẫn đắc giới như thường. Nhỡ luôn cả tượng Phật cũng không thì có thể nhất tâm hướng lên không trung, trong tâm tưởng và miệng nói như vầy: “Con nay thọ trì bát quan trai giới,” như vậy vẫn đắc giới. Nơi đây điều đáng chú ý nhất là hành giả phải dụng tâm chí thành, tâm cung kính, tâm ân trọng, tâm thanh tịnh tha thiết cần cầu mới được cảm ứng và đắc giới. Bởi vì pháp thân chư Phật biến khắp hư không, như kinh nói: “Đức Tỳ-lô-giá-na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-pháp.” Người thọ giới phải trì giới thanh tịnh không được hàm hồ. Hành Sự Sao trích dẫn Kinh Thiện Sinh nói: “Thọ bát giới không được đông, chỉ riêng mình thọ.” Hiện nay đa số các chùa tổ chức thọ bát quan trai giới đều là nhiều người cùng thọ, trên tình lý thì không có gì hại, nhưng đối giới luật thì không được mỹ mãn. Sở dĩ trong kinh nói riêng một người thọ vì để hành giả chuyên tâm nhất ý đến giới hạnh mình thọ, không để cho tâm niệm thuần khiết này bị các hỗn loạn khác làm động, cũng là biện pháp bất đắc dĩ, chỉ mong các vị bảo trì nghiêm túc. Cho nên thiết tha mong các vị hộ tịnh giới như giữ tròng con mắt, để tránh mọi tội ác khiến cho việc trì giới được thanh tịnh. Trong Kinh Niết-bàn kể: “Quá khứ có vị bồ-tát dùng chiếc ván trôi qua biển, trôi đến giữa biển xuất hiện một La-sát, đòi chiếc ván của Bồ-tát, Bồ-tát bảo La-sát: nhà người muốn gì cũng được trừ tấm ván này, đừng nói cả tấm, một miếng nhỏ cũng không được”. Tấm ván này như giới của chúng ta, nếu thiếu một mảnh cũng đủ hại mất huệ mạng, vì vậy các vị nên cố giữ gìn giới hạnh như giữ mạng sống.
Lại nữa, khi phát tâm thọ giới, bất luận trước hay sau, hoặc trong khi thọ giới, phải nghiêm túc dùng tám giới rửa sạch thân tâm, khiến thân tâm tương ưng với giới, do vậy mới được thanh tịnh và đủ công đức thù thắng. Mà muốn được công đức thù thắng thì trong khi thọ bát trai giới một ngày đêm, phải buông bỏ hết mọi việc thế tục, đem trọn thân tâm tắm gội trong Phật-pháp, chịu sự thấm nhuần của Phật-pháp và tương ưng với Phật-pháp. Nếu như là hạng chỉ biết hùa theo người, thọ giới thì thọ giới, nhưng chưa hề chuyển đổi mình theo giới, thì kết quả chỉ là một ngày luống không trôi qua vô ích mà thôi. Thành Thật luận nói: có 5 pháp có thể khiến cho giới hạnh được thanh tịnh.
- Trong thời gian thọ giới, có thể đúng như pháp hành thập thiện.
- Trong thời gian thọ giới, đoạn trừ hết các điều gây não hại cho chúng sinh từ trước hay sau này, không còn làm chúng sinh chịu khổ nữa.
- Trong thời gian thọ giới, không để cho ác tâm làm não loạn nội tâm, tức không để cho các niệm không chính đáng khởi lên, để khỏi trở ngại cho sự thanh tịnh của giới hạnh.
- Trong thời gian thọ giới, luôn luôn nhớ tưởng Phật, pháp, tăng, giới, xả, thiện để thủ họ cho giới hạnh. dựa vào công đức của sáu niệm này bảo trì cho giới hạnh thanh tịnh.
- Trong thời gian thọ giới, nguyện đem công đức trì giới này, hồi hướng đến cứu cánh Niết-bàn, quyết không dùng công đức này cầu phúc báo nhân thiên. thọ trai giới như vậy thì giới hạnh ắt thanh tịnh.
Thọ giới điều quan trọng là phải đắc được giới thể, nếu không đắc giới thể cũng đồng như không thọ. Trong Ngũ Chính Phạm nói: “Thọ Tam quy rồi liền đắc giới thể ”. Ở đây chỉ cho trường hợp là từ bậc truyền giới cùng hành giả thọ giới đều nghiêm cẩn thanh tịnh. Hoằng Nhất luật sư căn cứ theo Tam Pháp thứ đệ trong Tư Trì Ký giải thích: “Bất luận thọ ngũ giới hay bát giới, khi nói ba lần thệ nguyện quy y là đã đem giới thể quy nạp nơi tâm, quá trình của nó như sau: khi nói thệ quy y biến thứ nhất, do sức quan hệ của tâm, vô biên thiện pháp ở pháp giới, có thể khiến tâm niệm chuyển động hoàn toàn, biến đổi ác pháp thành thiện pháp. Khi nói thệ quy y biến thứ hai, vô biên thiện pháp hoàn toàn tụ lại trên không, như mây che, khiến thân tâm được thanh lương. Khi thệ quy y biến thứ ba, vô biên pháp giới thiện pháp bỗng từ không trung rơi xuống, rót vào thân tâm, tràn đầy trong sinh mạng thể. Vô biên thiện pháp như vậy, chứa trong thân tâm đó nương theo giới pháp này, tu tập định huệ vô lậu, lâu dần vượt được dòng sinh tử, đến thành Niết-bàn, được đại giải thoát”. Từ nãy giờ, quý vị đại khái đã hiểu sơ về duyên do, pháp thọ cũng như hành trì về Bát quan trai giới rồi, biết được thọ trì bát giới xác thực có công đức thù thắng thì nên phải thường phát tâm phụng hành bát giới. Có điều trong xã hội máy móc hiện nay, nhất là ở một đất nước quá văn minh về vật chất này. Muốn hành đúng pháp bát quan trai, lại giữ được đúng số theo lục trai nhật thì khó có người thọ được. Vì vậy, hy vọng quý vị khéo sắp xếp công việc, nhín chút thời giờ để tối thiểu mỗi tháng cũng có được một lần. Kinh Thiện Sinh nói: “Thọ trì bát giới có thể trừ được các tội nặng ngũ nghịch”. Trung A Hàm Kinh cũng nói: “Hàng thánh đệ tử đa văn khi trì tám giới này, ghi nhớ mười hiệu của Như-lai, nếu có các điều bất thiện nghĩ ác, đều được trừ diệt”. Vậy những ai muốn trừ tội tăng phúc nên nhân lấy cơ hội này thọ trì bát trai giới.
Toàn bài chỉ là phần trích yếu cùng tóm lược về pháp Bát Quan Trai Giới, quý vị nào muốn biết rộng, hiểu rõ hơn xin đọc kỹ trong cuốn Bát Quan Trai Thập Giảng của Diễn Bồi pháp sư do thầy Thiện Huệ dịch. Nguyện những ai đọc được những lời này đều phát tâm làm mới lại mình, thọ trì bát quan giới thanh tịnh, tu tập đúng theo chánh pháp, khiến cho Phật-pháp được trường tồn, cho muôn loài thảy được nhờ ơn tế độ. Mong lắm thay!
Trước ngưỡng cửa năm Đinh Hợi, kính chúc tất cả quý vị luôn được thân tâm thường lạc, gia đình hưng vượng tăng phúc hoàn duyên hạnh phúc trong ánh hào quang hồng ân của chư Phật.
– Đầu xuân Đinh Hợi, tháng 1 năm 2007 –
Tri Túc
Bình sanh tu được tùy duyên tánh
Trà thô cơm đạm cũng đủ rồi.
[1] Ngũ huân là năm thứ gia vị: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Tam Yếm: là kiêng không giết thịt ba loại: chim nhạn vì có nghĩa vợ chồng, Chó biết nghĩa chủ tớ, Ô-ngư (cá đen) có lòng trung kính.
Thiện Ác Đời Sau
Thời đại bây giờ mà còn nói chuyện nhân quả luân hồi, thiện ác nghiệp báo… nghe xưa như quả đất!!!
– Ậy!!! tuy là thế ! nhưng chuyện này lại mầu nhiệm huyền bí vô cùng, lắm lúc xưa như trái đất thật, nhưng lắm lúc lại mới mẻ vô cùng. Nó mới tinh và ngỡ ngàng y như ngày nao, cái ngày đầu hẹn hò gặp gỡ người yêu đầu đời của quý vị vậy ấy – rất khẩn trương, rất hồi hộp mà cũng rất ư là e lệ… Tất cả quý vị đều đã biết rất rõ chỉ là gặp một người khác phái thôi mà, thật sự là đâu có gì… thế mà vẫn cứ rất khẩn trương, thận trọng lại e dè khi tìm và gặp người yêu đầu tiên của quý vị. Thưa có đúng không ạ? Thuyết nhân quả luân hồi cũng lại như vậy!
Hôm nay rằm tháng bảy là ngày xá tội vong nhân, ngày mà các vong linh trong cõi u minh được thoát tội, được đi đầu thai, được trở lại làm người hay làm một thứ thân mạng gì đó rất mới mẻ, rất ngỡ ngàng khi ngày đầu bước vào thế giới của họ. Nhưng đó có phải là lần đầu tiên họ đến thế giới này không? Hay đã bao lần lên xuống ra vào ba cõi sáu đường đã từ vô lượng kiếp. Vậy mà mỗi lần tái sinh lại làm như rất mới, mở mắt chào đời nhìn thế giới hết sức lạ lùng, bỡ ngỡ…
*
* *
Trong truyện dài “Tu Bụi” của Trần Kiêm Đoàn, chương 26: Bờ Bên Kia có kể một chuyện rất hay về mẫu chuyện hành đạo của người trong cửa Phật và những người thế tục tu hành. Vì là chuyện dài nên chúng tôi chỉ xin tóm gọn những ý chính. Quan thượng thư Lê Trung Ẩn cố tìm cách thuyết phục Phạm Xảo trở lại triều-chính nên đã kể lại mẩu chuyện ẩn dụ về thủa xa xưa.
Chuyện kể về hai huynh đệ Trí Quang và Trí Minh sau mười lăm năm dài tu học, sư phụ dạy họ nên cùng nhau xuống núi hành đạo. Trong phút quyến luyến chia tay, vị ân sư dặn dò: “cuộc đời thật dưới kia không phải là cảnh trời, mà cũng chẳng phải là địa ngục. Hai con đã học chín những lời dạy tinh yếu nhất của ba tạng kinh điển. Nay phải xuống núi giúp đời là việc phải làm. Nếu chỉ lo tu trên núi để cầu mong giải thoát cho riêng mình như thầy là điều rất khó đạt vì nợ nần chúng sanh là món nợ trùng trùng ân tình, ơn nghĩa dễ vaymà khó trả. Chưa trả sạch nợ thì nghiệp chưa giải hết, làm sao buông tay, quay mặt với đời để giải thoát một mình… trong các món nợ thì nợ mình là lớn nhất. Cái tôi càng nhỏ, nợ nần càng ít. Tâm không, vô ngã là hết nợ.” Trở về lại với đời thường, Trí Quang tin rằng, nuôi được tâm không, vắng lặng giữa chốn bụi đời phiền trược mới thật là tịnh tâm và tịch diệt được mọi ham muốn ở đời. Nghĩ vậy nên Trí Quang suốt ngày lê la sống giữa chợ, mỉm cười bất chấp những điều tục lụy khen chê. Riêng phần Trí Minh thì hoàn toàn ngược lại, nghĩ rằng bồ-tát hạnh không xa thế gian một mảy may nên lặng lẽ vào đời để sống như mọi người. Trí Minh làm ăn trở nên giàu lớn và lấy vợ sinh con, có đủ thê thiếp, kẻ ăn, người ở đầy nhà. Mười năm sau, Trí Minh chạnh nhớ người huynh đệ nên cho người tìm và mời về nhà mình. Khi Trí Quang đến nhà thấy dinh thự đồ sộ của Trí Minh thì ngẩn người choáng ngợp; nghĩ rằng huynh đệ của mình đã quên lời Thầy dặn, tham luyến giữa đời liền xách gậy đập vỡ hết những thứ quý giá sang trọng trong nhà, lại còn rượt đánh người nhà của Trí Minh chạy tán loạn. Xong rồi trừng mắt hùng hổ vung gậy lên trước mặt Trí Minh, nhưng bắt gặp ánh mắt trong ngần mát lạnh, thân ái của Trí Minh đang nhìn mình. Gậy trong tay Trí Quang rơi xuống, họ không ai nói một lời nào, đồng dang tay chạy ào đến ôm nhau… Trí Quang cất tiếng thở dài: “Đứng lại giữa đời mà lạc đường! hèn gì Thầy mình phải vào sâu trong núi…” Trí Minh an ủi: “Mọi vật đều biến đổi trong từng khắc. Có gì đứng lại được đâu. Cho nên tự mình đứng lại cũng có nghĩa là đang bị xô đi. Đã biết phút trước không còn, phút sau chưa đến thì có gì để bám víu và bám víu để làm gì chứ!”
Kể xong câu chuyện, Lê Trung Ẩn kết luận cho rằng huynh đệ của họ đều bị dính mắc. Trí Quang khinh bỉ quay lưng hay nóng nảy đập phá thế giới vật chất mà anh ta coi như là “có”, là kẻ thù của vô ngã. Trí Minh thì tự cho mình đã vượt ra khỏi vòng câu chấp, ôm trọn đời sống vật chất trong tay nhưng quay lại đánh đổ và coi thường nó như một phủ nhận hiện hữu với tâm trạng thỏa mãn của một người “giác ngộ.” Sự giác ngộ dễ dãi và ngây thơ của người chỉ thấy tượng Phật trong chùa mà không thấy tánh Phật quanh ta…
Phạm Xảo thì góp ý một cách lơ lửng:
– Biết đâu vậy mà hai anh em ấy lại cảm thấy an lạc và hạnh phúc hơn tất cả chúng ta bây giờ.
– Tại sao tướng quân lại suy diễn như thế?
– Vì tất cả chỉ là phương tiện tạm thời để đi đến cái đích. Ấy là hạnh phúc. Sống là phương tiện. Thân xác nầy là phương tiện. Tu bụi hay tu đạo cũng chỉ là phương tiện. Qua những thay đổi, thăng trầm bên ngoài mà có người cho là “dâu bể” thì hạnh phúc nhất là tìm được ra nhau. Trí Quang và Trí Minh tìm ra nhau, ôm lấy nhau sau những đổ vỡ tang thương. Ấy là hạnh phúc.
Câu chuyện được tiếp diễn và kéo dài qua một khúc quanh. Những oan trái thường theo danh mà đến, bám lợi mà vào, nương theo lòng ham muốn mà đi. Riêng Phạm Xảo sống đời lặng lẽ như chiếc bóng trong Thái Ấp. Cho đến một hôm, Quan Tổng Đốc Trần Minh tìm đến nhà. Ông đã ôm mối hận đi tìm kẻ thù giết cha mẹ mình và ôm ấp một hoài niệm đi tìm lại ân nhân đã cứu mình và cấp dưỡng mình trưởng thành cho đến khi ra làm quan. Hôm nay ông đã tìm đến gặp lão tướng Phạm Xảo. Họ đều là những tướng quân chỉ khác thế hệ. Và bây giờ giữa có một mối thù bất cộng đới thiên, nhưng Phạm Xảo không chịu động đến đao kiếm. Nên Trần Minh đành dùng chiến tranh lạnh, đấu pháp họ phải đối mặt bây giờ là giao đấu bằng cách ngồi bất động và lặng thinh. Trần Minh cắm kiếm bên bàn đá và ra điều kiện người nào bị ngã ngục trước thì người kia sẽ cắt đi đầu của họ và coi như oán thù này được giải quyết. Xem ra cuộc chiến thì rất êm ả nhưng chỉ có họ mới hiểu được cam go ở trong đó. Thời gian chầm chậm trôi đi, nhưng nội tâm của họ bắt đầu vực dậy, cuộn trào lên bao nhiêu thứ đòi hỏi rất bình phàm của loài người, nhưng họ mỗi người tự biết mình cần phải làm gì nên chỉ còn nước cắn răng chịu đựng. Với tuổi trẻ nóng nảy, năng động của Trần Minh thì chắc hẳn sẽ thua xa bản lãnh âm trầm chịu đựng của Phạm Xảo. Tiếp diễn cho đến rạng ngày thứ hai, khi ánh nắng đầu rải đều trên mặt đất cũng chính là lúc Phạm Xảo tiếp xúc được với tâm linh, sống lại với cái chân thật của mình. Nên ông xốc kiếm đứng lên đi sát đến bờ tường vôi trắng xóa, một nhát kiếm hoa lên, một ngón tay bị đứt lìa, máu! Máu biến thành màu mực son uốn lượn những nét đại tự cuồng thảo. Mực son vừa cạn kiệt, một nhác kiếm hoa lên, một ngón tay lại rơi xuống, động tác đẹp mắt đau lòng ấy tái tiếp diễn cho đến lúc trên tường vôi hiện toàn bày bài thần chú Bát-nhã: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ-đề tát bà-ha”, nghĩa là vượt qua, vượt qua, hãy vượt qua bờ bên kia. Bài chú vừa kết thúc cũng là lúc thân hình của Phạm Xảo biến thành một cái xác không hồn. Chính ngay lúc ấy, Trần Minh cũng như choàng tỉnh sau cơn ác mộng đưa tay vào ngực áo lôi ra tấm vải gấm vàng đã cũ với những giòng chữ cuồng thảo màu son viết bài Kinh Bát Nhã đã bị xét mất đi đoạn cuối. Những nét chữ cuồng thảo thật giống nhau, chỉ khác chăng dòng chữ trên tường chính là phần cuối của tấm vải vàng đã bị xét đi. Đấy là vật duy nhất để cho Trần Minh đi tìm và nhận biết ân nhân của mình mà bà Vãi ở chùa đã trao cho trước khi nhắm mắt. Trần Minh xiết chặt mảnh gấm vàng và khóc vùi dưới chân của Phạm Xảo. Ông nói lời đủ cho mình và cả ba ngàn thế giới cùng nghe: “Mẹ ơi! Cha ơi! Ân nhân ơi! ước chi con gần được những trái tim của mẹ, của cha, của người ân từ ngày còn bé để con biết khóc như hôm nay trước khi con biết hận thù!”
Câu chuyện trên tình cảnh khúc chiết, chúng tôi chỉ sơ lược vài dòng để quý vị nắm phần chính yếu. Một người khi đã liễu giải được nhân quả, tiếp xúc được chính mình sẽ tự biết phải làm gì để cởi mở vòng nghiệp báo luân hồi. Vấn đề hôm nay chúng tôi muốn bàn đến cũng chỉ là chuyện Thiện Ác Nghiệp Báo. Bởi có phật-tử đưa ra vấn đề thế này: Kiếp này con làm điều thiện, mà con sợ kiếp sau con sẽ làm điều ác thì có cách nào chắc chắn con có thể làm việc thiện trong tất cả các kiếp về sau của con không?
Đây là một vấn đề rất nan giải. Vì sao? Trong kinh Phật nói: “Bồ-tát còn mê khi cách ấm”, nghĩa là khi nhập thai và sanh ra đời khác, hàng Bồ-tát hãy còn mê muội khi chuyển sanh, hà huống chúng ta là phàm phu trong hạng phàm phu. Làm sao có thể giữ được? Chỉ có một cách là tu thôi, mà phải tu làm sao chứng đến bậc thánh mới được. Hiện giờ chúng ta đang trong địa vị phàm phu thì cũng phải chiếu theo bốn quy tắc căn bản của Ấn Quang đại sư sau đây:
- Tồn hảo tâm: luôn giữ tâm niệm thuần thiện.
- Thuyết hảo thoại: luôn nói lời thật ngữ tốt lành.
- Tố hảo sự: luôn hành trì những điều thiện.
- Tác hảo nhân: làm người tốt hay cứu giúp người khác.
Y theo đây thì cái nhân lành này chúng ta đời sau mới có thể tiếp tục con đường thiện hạnh của mình được. Do giữ tâm thuần thiện nên ba chất ác của tham sân si không thể sanh khởi nên lòng được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chất liệu vô cùng trọng yếu, nhờ có nó mà ta mới có thể nuôi dưỡng và phát huy được lòng nhân nơi ta. Chữ lòng nhân đây, theo cách viết Hán là nhân tâm (仁心): nó mang tính chất hội ý. Nghĩa là tâm ý nghĩ đến phúc lợi, giúp đỡ và thành tựu cho người thứ hai, chẳng phải mình. Chỉ luôn nghĩ đến mình thì không có lòng nhân từ, mà phải biết nghĩ đến người khác. Như vậy cũng đồng nghĩa với Bồ-tát, vì Bồ-tát là giác hữu tình, giúp chúng hữu tình đồng giác ngộ như mình không khác. Như câu chuyện Vua Ma-Ha-Nam tính biết trước sẽ không tránh khỏi việc Vua Lưu-ly sang trả thù đánh phá. Ngài đã nghĩ ra một kế hy sinh bản thân mình để mong cứu thoát dân lành, nhưng bởi lòng còn lưỡng lự không biết hành động của mình có ảnh hưởng đến cận tử nghiệp và lúc chuyển sanh hay không, nên ông đã tìm đến hỏi Phật.
Ngài Ma-ha-nam bạch Phật rằng: những lúc tôi gặp phải xe, ngựa, voi điên và người đánh lộn là khi ấy tôi mất tâm niệm Phật, không may lâm nạn bị chết thì sẽ sanh về cõi nào?
Đức Phật dạy: lúc ấy không may thời người vẫn được sanh về cõi lành, chứ chẳng sanh về ác thú đâu, ngươi đừng lo sợ. Ví như cái cây thường ngày nó nghiên về hướng đông, nếu mà nó bị gãy thì quyết định nó ngã về hướng đông. Người lành cũng như thế, nếu khi thân chết nhờ sức hun đúc ý thức lành đã nhiều ngày từ trước như kính tin trì giới, học hỏi, bố thí và trí tuệ chắc được lợi ích mà sanh lên trời. (*)
Cho nên cái tiêu chuẩn đầu tiên rất ư là thiết yếu, nếu vắng mặt nó thì mọi việc thiện lành của chúng ta cũng chỉ kể như công suông. Chính là Kinh Anan Vấn Sự Phật Kiết Hung chỗ nói: “Bất chỉ tiền thế túc tộ vô công” nghĩa là không chỉ đời trước làm phước không thật công đức; đời nay lại tiếp diễn, tức tuy cũng là làm thiện, làm phước nhưng không gặp hái được công đức. Chỉ vì hư danh mà không thật dụng vậy. Nên phải tu tâm thuần tịnh, thuần thiện. Có được vậy rồi thì mới nói được lời thành thật tốt lành mà trong Tứ Nhiếp Pháp gọi là ái ngữ: nói lời hòa diệu dễ cảm hoá người. Đến phần làm việc tốt, người tốt. Làm việc tốt là không những không cản trở việc tốt đẹp của người mà còn hết lòng giúp đỡ thành tựu cho họ. Làm người tốt thì không bao giờ nghĩ chuyện phương hại đến người khác. Như Tam Tự Kinh vừa mở đầu cổ đức dạy: “nhân chi sơ tánh bổn thiện.” nghĩa là con người ban sơ tánh vốn thiện. Sách này là sách dạy trẻ nhỏ, nên câu kế là: “tánh tương cận, tập tương viễn.” tức tánh nương ở gần, mà tập tành thì lâu sau. Bởi vậy, cái tánh bổn thiện đó phải được nuôi dưỡng từ nhỏ mà quan hệ mật thiết nhất không ai hơn là ông bà, cha mẹ, cô cậu, anh em,… Thế nên, muốn là người tốt thì cần rất nhiều yếu tố xung quanh tạo nên. Một chứng cứ hùng hồn là ngài Mạnh Tử thành tựu là nhờ vào cách ứng xử khéo léo của mẹ. Nếu không có sự trợ giúp đó ngài quyết định không có được người đời kính trọng như bây giờ. Ở đây có một điểm nhỏ chúng tôi có lời thưa với quý vị, hãy học theo hạnh của mẹ ngài Mạnh Tử, để mắt lưu tâm đến con cháu mình. Nuôi dưỡng hun đúc chúng nó với lòng từ bi, biết yêu thương giúp đỡ chớ đừng để nó mang nặng niềm oán ghét thù hận trong tâm. Trên đây là bốn yếu tố căn bản nhất của căn bản để chúng ta trở thành người thiện.
Bước thêm bước nữa chúng ta phát tâm tu hành, thực tập theo Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên của hàng nhị thừa. Nếu muốn không còn rơi vào ba đường ác nữa thì chí ít cũng phải chứng đến quả Tu-đà-hoàn, vì Tu-đà-hoàn là quả Dự Lưu tức là đã nhập vào dòng thánh. Còn nếu phát đại tâm, hành đại nguyện, tu theo đại thừa thì phải nắm chắc câu thần chú này: “hy sinh phụng hiến, xả kỷ vị nhân.” Thực hành sáu pháp ba-la-mật và bốn lời nguyện lớn. Mà thực tế và gói gọn nhất là Thập đại nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền trong Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyên của Kinh Hoa Nghiêm. Còn nếu tự nghĩ mình không đủ năng lực vượt thoát trần lao thì chuyên một lòng trì danh niệm Phật cầu sanh về nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Vì cõi ấy không có ba đường ác, và một khi vãng sanh về nước đó thì không còn thoái chuyển trong sanh tử trầm luân. Phật A Di Đà lại còn phát đại nguyện hễ chúng sanh nào hết lòng tín nguyện niệm Phật cầu sanh sẽ được đới nghiệp vãng sanh. Lại như thấy tất cả những điều trên đây khó khăn quá không làm được nữa thì chỉ còn một nước là phải tạo cho được đại phước báo để được sanh lên đến Đao-lợi thiên. Người khi sanh đến Đao-lợi thiên vẫn còn nhớ biết được nguyên nhân đời trước làm sao mình được sanh lên đến cõi này nên không mất đi nhân duyên trước, có thể tiếp tục con đường thánh thiện của mình cho đến ngày giải thoát.
Bây giờ chúng tôi xin trích một vài đoạn kinh văn để quý vị hiểu rỏ thêm về nhân quả nghiệp báo. Mở đầu Kinh Nhân Quả Ba Đời – Phật dạy: – Nầy các tỳ-khưu, hết thảy trai, gái, già, trẻ, phú quý, bần tiện, chịu khổ vô cùng hay hưởng phúc vô tận đều do sự báo ứng của nhân quả kiếp trước, vậy cần phải làm gì? trước tiên phải hiếu kính cha mẹ, kính tin Tam-bảo! thứ đến cần phải giới sát, phóng sinh, niệm phật, bố thí, trồng các ruộng phúc cho đời sau!
Trước hết Phật dạy rõ cho chúng ta, người ta sanh ra có giàu nghèo, quý tiện, trai gái đẹp xấu là do quả báo của kiếp trước. Muốn kiếp sau như thế nào thì phải do nơi nhân trồng nơi kiếp này. Nên trong kinh có chỗ Phật thuyết: “Muốn biết nhân đời trước thì hãy nhìn vào quả báo hiện tại, muốn biết kết quả đời sau thì hãy nhìn vào chỗ tạo nhân ở hiện tại”. Phật từ bi dạy cho chúng ta những điều về hiếu kính, niệm Phật, bố-thí là muốn cho chúng ta biết gieo nhân lành để hưởng quả phúc về sau. Bởi vì sau khi chuyển sanh ở kiếp khác, người ta thông thường không còn nhớ được những gì ở kiếp trước nữa. Cũng có một số rất ít người nhớ lại được, đó là những hình thức đoạt thai khi sanh, hay nhân duyên đặc biệt mà có được. Kinh Kiến Chính – Phật nói: Nầy các đệ tử! thần thức chuyển dời đi theo với nghiệp, người không có đạo hạnh, không có thần thông trí tuệ sáng suốt hoàn toàn, không thể nào biết được những việc trước… Nầy các đệ tử, thần thức khi còn ở đời. làm thiện làm ác, tới lúc chết đi, sẽ tự theo chỗ nghiệp cảm phải thụ báo, mang thân hình khác, thì chỗ thấy biết cũng đều thay đổi hết, không còn có chi là như cũ nữa… Sinh tử cũng như thế, người nào chưa tu chứng được đạo quả, không có mắt trong sạch sáng suốt, thì lúc thân chết đi, thần thức phải theo nghiệp mà biến hóa đổi dời, mang lấy thân khác, lại phải chịu ở trong bào thai, tất nhiên mọi sự thấy biết, cũng đều khác hết, nên không còn nhớ đến những việc cũ nữa.
Thần-thức trong kinh Phật nói chính là cái mà chúng ta thường gọi là linh hồn. Thần thức đây là cái thấy biết huân tập do một đời tạo tác, vin theo mà sau khi chết đi chuyển sanh thành thân trung ấm. Bởi vì chấp trước nên phải chịu luân hồi theo nghiệp duyên thiện ác. Như trong Tứ Liệu Giản của Tổ Vĩnh Minh có viết: “ấm cảnh nhược hiện tiền, phiết nhĩ tuỳ tha khứ”. khi ấm cảnh hiện ra thì thoáng chốc tùy theo nó mà chuyển sanh. Vì thế nên Phật ra đời, đem đạo lý ra chỉ bảo cho người tỉnh ngộ ngay trong tâm mình đã. Vậy ai muốn biết thần thức đi lại trong vòng sanh tử, hưởng thụ thế nào. cần học ngay 37 phẩm cốt yếu của Phật dạy về các phương pháp tu hành, là những phép rất mầu nhiệm vào thiền-định, khiến cho trí tuệ được sáng suốt vô cùng cực, để kiểm điểm thân tâm, gìn giữ thân tâm, điều hòa thân tâm, khiến cho thân tâm, trở lên chân chánh, đầy đủ trí tuệ, thì mới có thể biết rõ hết mọi chỗ thần thức đi lại, và các việc xưa nay thay đổi như thế nào.
Đoạn kinh văn kế tiếp, Phật từ bi nói rõ hơn về cách hành trì và đối trị: Nầy các đệ tử! các người cần phải học hỏi cho hiểu rõ mọi sự của thân và tâm, phải biết rõ các phương pháp để đối trị, mỗi khi gặp sự mờ ám, kíp phải diệt trừ ngay đi, chớ nên làm cho rối loạn thân tâm, giữ vững tinh thần theo chánh pháp, giữ đúng được như thế mãi, thì những chỗ ngờ vực không cần phải hỏi, tự khắc là giải quyết được rồi.
Trên đây là những đoạn kinh văn thuộc bên tiểu bộ, dạy rõ về sự cho chúng ta hiểu để hiểu làm sao ứng xử khi tiếp người, đối vật, đối sự trong cuộc sống hằng ngày. Bây giờ đi sâu hơn chút nữa, chúng ta lần vào đại thừa bộ, học hỏi phần lý tánh mà ứng dụng. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Phật dạy: Long vương nên biết! Bồ-tát có một pháp hay dứt tất cả các đường ác khổ. Thế nào là một? Nghĩa là ngày đêm thường nhớ, suy nghĩ quán sát pháp lành, làm cho các pháp lành mỗi niệm mỗi tăng trưởng, không để một mảy may bất thiện xen lẫn vào. Tức là hay khiến cho các ác pháp hằng dứt, thiện pháp viên mãn, thường được gần gũi chư Phật, Bồ-tát và các Thánh chúng.(*)
Đoạn kinh văn này là chỗ tối diệu trong việc tu thiện, hành thiện và quả báo thiện thù thắng về sau. Vì sao? Vì từ người, trời, cho đến quả vô thượng Bồ-đề đều phải y theo nơi pháp này làm căn bản mới được thành tựu. Cho nên muốn đời nay và mãi mãi về sau nữa, muốn chẳng còn phải chịu thối đọa trong ba đường ác nhất định phải tu theo pháp này. Mọi người đều biết, chúng ta có mặt trong đời này khổ nhiều vui ít. Đức Phật thương xót than rằng: “Nhân sanh tại thù đồ.” Nghĩa là chúng ta sanh ra có mặt ở cõi đời này chỉ là để trả nợ và đòi nợ. Vì vậy mà Quy Sơn Cảnh Sách chép: “Bởi do nghiệp trói buộc mà có thân.”
Đây chính là chỗ Phật chỉ rõ cái gốc vô minh của chúng ta. Chúng ta có mặt đây là do nghiệp duyên trói buộc tạo thành, nên chỉ thấy cuộc đời đầy đau khổ. Tuy khổ là thế mà nào có mấy ai muốn thoát ra, có người bảo rằng: Ai bảo em cuộc đời đầy đau khổ, khi em còn có mẹ ở trong tâm. Nghe dễ thương làm sao! Hạnh phúc sao mà giản dị quá. Vậy mà ở đời có nhiều người lại không tìm được cái hạnh phúc đơn giản bình phàm như vậy đó. Hà huống chi là những thứ khác. Nên cần phải phát đại tâm, nếu không thoát ra ba cõi thì sanh tử tử sanh không bao giờ ngừng dứt. Như trong Chứng Đạo Ca của Huyền Giác đại sư viết: “Mấy hồi tử, mấy hồi sanh, sanh tử liên miên không ngừng nghỉ”.(1) Bởi một khi nhân đã tạo thì quả phải nhận thọ, dù đó là nhân thiện hay ác: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”. Hoặc như Quy Sơn Cảnh Sách nói: “Giả sử trăm nghìn kiếp, nghiệp đã tạo không bao giờ mất. Nhân duyên khi gặp gỡ, quả báo lại phải chịu”.
Nhưng rồi, dù là thiện báo, phước báo, hay gì gì đi nữa. Chúng ta không nên chấp trước phước báo hữu lậu để rồi rơi trở lại sanh tử luân hồi, do đó mà Kinh Kim Cang, Phật thuyết: Vị bồ-tát đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ trụ trước mà làm việc bố-thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà bố-thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố-thí.
Bởi dù phước báo nhiều như cát sông hằng, lớn bằng cả tam thiên đại thiên thế giới rồi cũng có ngày hưởng tận. Phước báo hết tất sẽ rơi vào ba ác đạo, lại giáp mặt với thế giới khổ đau. Bởi vô minh nên chúng ta mê lầm không hiểu được chân tướng vũ trụ nhân sanh, nên mãi trôi lăn trong ba cõi sáu đường trầm luân khổ hải. Không nhận chân được sự thật nên lấy khổ làm vui. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Thí Dụ nói: Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thinh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sanh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt.
Chung quy lại, tất cả vạn vật hiện hữu trong thế gian nầy, thảy đều là giả hợp, là vô thường biến đổi, không thật. Phật ví những gì có mặt đây cũng như là những cảnh trong mộng, như thuật huyễn hoá, như ánh điện chớp, sương long lanh dưới nắng, ảnh tượng trong gương phản chiếu. Vì vậy mà trong kinh Kim Cang Phật thuyết kệ rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
tạm dịch:
Tất cả các pháp hữu vi
Khác nào mộng, huyễn, khác gì điện, sương
Như (bong) bóng nước, như ảnh tượng
Xét suy như thế cho tường cho quên.
Biết được hết thảy các pháp đều không thật nên chúng ta phải suy xét mà sống thật lại với bản tâm mình, đừng chạy theo, đừng chấp trước. Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa có đoạn: Các pháp bản lai rỗng lặng, tàn tạ thay đổi không ngừng, niệm niệm sanh diệt. khổ không, vô thường, vô ngã,… bản lai bất sanh, nay cũng bất diệt, một tướng vô tướng, không tới không lui mà bốn tướng của chúng sanh thường phải biến thiên.
Chúng ta thấy được vạn vật biến đổi vô thường như thế thì làm sao nắm chắc được việc hành thiện của mình được mãi luôn bền vững. Không nên vì việc quá khứ mà mãi lưu tồn niệm oán hận trong lòng, nên hướng về tương lai cùng nắm tay nhau ca khúc khải hoàn thoát ly khổ não. Vì vậy, phải y theo lời Phật dạy mà hết lòng trì danh niệm Phật để sanh về Cực-lạc mới được cái thiện chân thật không biến đổi. Kỳ vọng mọi người đều minh bạch đạo lý này mà đồng phát tâm học Phật, tu hành, hoằng dương Phật pháp khỏi cô phụ đại ân của chư Phật, Bồ-tát, không lãng phí kiếp này sống ở thế gian. Được vậy thì chúng tôi không uổng một phen hạ bút.
Mong thay! Mong thay!
– Đầu hè Bính Tuất, tháng 5 năm 2006 –
Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ
(*) Phần Nhơn Quả chương Chúng Sanh “Luận Tà Trí” trong Kinh Lời Vàng.
(*) nguyên văn: Long vương đương tri! Bồ-tát hữu nhất pháp, năng đoạn nhất thiết chư ác đạo khổ. Hà đẳng vi nhất: Vị ư trú dạ thường niệm tư duy, quán sát thiện pháp. Linh chư thiện pháp, niệm niệm tăng trưởng, bất dung mao phần bất thiện gián tạp. Thị tức năng linh chư ác vĩnh đoạn, thiện pháp viên mãn. Thường đắc thân cận chư Phật, bồ-tát cập dư thánh chúng.
(1) Nguyên văn: Kỷ hồi sanh, kỷ hồi tử. Sanh tử du du vô định chỉ
Phát Bồ-đề Tâm
Ngày nay đại-chúng đồng-nghiệp trong Đạo-tràng đã cùng nhau rửa sạch tâm ô-uế rồi, thập-ác, trọng chướng không còn, nghiệp lụy đã hết, trong ngoài đều thanh-tịnh. Thứ lại xin học các vị Bồ-tát tu-hành trực-đạo, công đức trí-huệ do đó mà sanh. Bởi vậy, chư Phật thường khen ngợi sự phát tâm là Đạo-tràng, vì hay thành tựu được đạo quả vậy.
Nguyện xin đại-chúng đều nên kiên-tâm trì-chí, chớ tưởng sống lâu mà đợi ngày lậu-tận, chớ luống qua, sau ăn-năn không kịp. Bây giờ đã cùng nhau gặp thời buổi tốt, ngày đêm chớ để phiền-não che lấp tâm tánh, phải nên nỗ lực phát tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề là tâm Phật, công đức trí huệ vô lượng, không thể nghĩ bàn… Giả sử lịch kiếp tu hành vô lượng phước đức, làm đủ hết thảy việc lành, không bằng một niệm phát tâm Bồ-đề trong muôn một. Toán số thí dụ cũng không thể so lường được công đức phát tâm Bồ-đề. (trích chương: Phát Bồ-đề Tâm trong Lương Hoàng Sám Pháp)
*
* *
Trong cuộc sống đời thường cũng như trong Phật pháp, có những danh từ được lặp lại nhiều lần, biến chúng trở thành quen thuộc khiến ta ngỡ rằng đã hiểu, thật ra chúng ta chỉ làm quen mà chưa biết rõ tường tận. Phát Bồ-đề tâm! câu nói này ở trong nhà Phật thì hầu như chẳng còn ai xa lạ nữa. Đôi khi còn dính chắc trên môi của mọi người; bởi lẽ lúc có việc gì cần thì mình liền khuyên họ nên phát bồ-đề tâm ủng hộ, giúp đỡ, bố thí cúng dường.v.v. Khi công việc hoàn thành rồi thì liền tán thán họ công đức vô lượng, khen tặng tột cùng… Hiện nay chúng ta ở vị trí phàm phu địa, muốn phát tâm bồ-đề thì phải có năng lực hiểu biết mới phát được. Mà phát tâm bồ-đề thì phải có đủ nhân duyên mới phát được, không phải tùy tiện lúc nào cũng phát được. Cái mà quý vị thường gọi là phát Bồ-đề tâm đó chỉ là phát lòng lành, hành thiện chia xẻ mà thôi. Không phải là phát Bồ-đề tâm đâu! Phát Bồ-đề tâm là phát tâm làm Phật, phát tâm ra khỏi ba cõi sáu đường, mười pháp giới. Nay chúng ta phải ở nơi địa vị phàm phu mà muốn phát Bồ-đề tâm thì phải thường hằng tâm nguyện, bởi phát tức là từ trong lòng mình phát nguyện ra chứ chẳng phải là từ bên ngoài mà được. Vậy thì những chữ chúng ta dùng đó thật thỏa đáng chưa? Chúng ta có nên dùng những câu nói như vậy để làm những việc như thế chăng? Để khảo lược chuyện này, quý vị cùng chúng tôi đi tìm hiểu một chút về mấy chữ rất phổ thông này.
Cách nói phát bồ-đề tâm, phát tâm Bồ-đề hay phát lòng Bồ-đề thảy đều là một thứ. Mà Bồ-đề là gì? Bồ-đề là tiếng dịch âm theo Hán ngữ từ chữ Bodhi, đọc theo âm tiếng Việt chúng ta thành là Bồ-đề. Bồ-đề dịch nghĩa là giác, trí, tri đạo, tỉnh thức, giác ngộ. Trí huệ đoạn tuyệt phiền não thế gian để thành tựu Niết-bàn, tức là trí giác ngộ mà Phật, Duyên giác, Thanh văn đã chứng được ở quả vị của mình.
Trong tiểu thừa, Bồ-đề là chứng được Tứ Diệu Đế, thoát ly khổ hải sanh tử. Trong đại thừa, Bồ-đề được hiểu là trí huệ, nhận ra rằng không có sự sai khác giữa Niết-bàn và luân hồi. Bồ-đề là chứng được trí Bát-nhã, nhận ra Phật tính của chính mình hay của muôn loài, nhận ra tính Không của thế gian, nhận biết sự thật như nó là chân như. Đại thừa phân biệt ra ba loại Bồ-đề: giác ngộ cho chính mình (sự giác ngộ của một vị A-la-hán), giải thoát cho chúng sanh (sự giác ngộ của một vị Bồ-tát) và giác ngộ hoàn toàn của một vị Phật. Trong quan điểm này, mỗi trường phái Đại thừa lại có một cách giải thích khác nhau.
Bồ-đề tâm (菩提心) tiếng phạn là Bodhi-citta, dịch nghĩa là giác tâm. Bồ-đề tâm gọi đủ là A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề; còn có những tên khác như: vô thượng chính chân đạo ý, vô thượng Bồ-đề tâm, vô thượng đạo tâm, vô thượng đạo ý, vô thượng tâm, đạo tâm, đạo niệm, đạo ý, giác ý. Mới bắt đầu phát tâm gọi là sơ phát tâm, đem cái tâm cầu thành Phật;. Tâm hướng về giác ngộ là một trong những thuật ngữ quan trọng của đại thừa. Tâm là hạt giống sinh ra tất cả chư Phật, là ruộng tốt nuôi lớn tịnh pháp, sau khi phát khởi tâm này, siêng năng tinh tấn tu hành sẽ chóng được thành Phật. Lương Hoàng Sám Pháp nói:
“Lại như có người chỉ làm việc phước đức chớ không phát tâm vô thượng Bồ-đề; người ấy cũng như kẻ cày ruộng không gieo giống. Mầm mống đã không gieo thì làm sao có lúa thóc. Vì lý do ấy nên phải phát tâm Bồ-đề để làm nhơn duyên cho việc chứng quả; trước là báo ơn chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài. Cho nên Phật khen ngợi các thiên-tử rằng:
Lành thay! Lành thay! Như lời các ngươi nói là vì muốn lợi ích cho hết thảy chúng sanh.” Phát tâm Bồ-đề là cách cúng dường lớn hơn tất cả.”
Thế nên biết Bồ-tát Đại thừa trước tiên cần phải phát khởi tâm rộng lớn, gọi là phát Bồ-đề tâm, phát tâm, phát ý. Theo cách định nghĩa của Phật giáo Tây Tạng thì Bồ-đề tâm có hai dạng tương đối và tuyệt đối. Bồ-đề tâm tương đối lại được chia làm hai cấp bậc:
- Xuất phát từ lòng Từ Bi, hành giả quyết tâm giải thoát để cứu độ chúng sinh.
- Hành giả hành trì thiền định, mục đích đạt được phương tiện thiện xảo, để biến ước mơ thành hành động.
Còn Bồ-đề tuyệt đối chính là sự chứng ngộ được tánh Không của mọi hiện tượng. Mỗi khi hành giả trực nhận được tánh Không thì tâm thức nội tại lúc ấy của họ chính là Bồ-đề tâm tuyệt đối.
Theo kinh Bồ-tát Địa Trì I, có bốn thứ duyên trợ giúp hành giả phát Bồ-đề tâm:
- Thấy nghe thần thông biến hoá bất khả tư nghị của Phật, Bồ-tát mà phát tâm.
- Tuy chưa thấy thần biến, nhưng được nghe nói về Bồ-đề và Bồ-tát Tạng mà phát tâm.
- Tuy chẳng nghe chính pháp, nhưng tự thấy tướng chính pháp diệt, vì muốn hộ trì chính pháp mà phát tâm.
- Chẳng thấy tướng chính pháp diệt, nhưng thấy chúng sinh bị phiền não trói buộc khó phát tâm được nên mình phát tâm.
Cho nên Phật kinh thuyết:
Lại nữa tâm Bồ-đề chỉ gặp thiện-tri-thức liền phát, vị tất phải gặp Phật xuất-thế. Như ngài Văn-thù Sư-lợi Bồ-tát, lúc đầu hướng về Bồ-đề là nhờ gặp được nữ nhân mà phát. Nhưng sơ tâm huệ thức không phải kẻ phàm phu, tâm chí hạ liệt mà phát được. Phải là người có thật tâm khát ngưỡng đại thừa, tham cầu Phật-pháp, y theo kinh, xem thường thế sự, oán thân bình đẳng, lục đạo như nhau. Nguyện cho hết thảy chúng sanh nhờ sự phát tâm ấy mà được giải thoát, đều đồng tín-giải. Nên biết sự phát tâm không phải là việc nói chơi, hạng người tầm thường mà phát tâm được…
Tịnh độ tông của phái Trấn Tây chia Bồ-đề tâm ra thành Bồ-đề tâm thánh đạo và Bồ-đề tâm tịnh độ môn. Họ cho rằng Bồ-đề tâm là tổng an tâm, còn tam tâm (1. chính thành tâm, 2. Thâm tâm, 3. Hồi hướng phát nguyện tâm) là biệt an tâm, cho nên chủ trương cần phải phát Bồ-đề tâm. Tịnh Độ Chân Tông lại phân ra Tự lực Bồ-đề tâm và tha lực Bồ-đề tâm. Trong đó, Phật dùng bản thệ nguyện cho chúng sinh tin ưa tức là tín tâm chân thật vì tâm nguyện làm Phật (tâm tự lợi nguyện thành Phật), tâm độ chúng sinh (tâm lợi tha tế độ tất cả chúng sinh), cho nên gọi là Tha lực Bồ-đề tâm, Tịnh độ đại Bồ-đề tâm.
Theo Đại Thừa Nghĩa Chương 9, có ba loại duyên:
- Tướng phát tâm: thấy tướng sinh tử và Niết-bàn, nên chán sinh tử và phát tâm cầu Niết-bàn.
- Tức tướng phát tâm: biết bản tính của sinh tử tịch diệt cùng Bát-nhã không khác, lìa tướng sai biệt mà khởi tâm bình đẳng.
- Chân phát tâm: biết bản tính của Bồ-đề là tự tâm, Bồ-đề tức tâm, tâm tức Bồ-đề mà quay về bản tâm của chính mình.
Luận Đại Trí Độ lại chia Bồ-đề ra năm loại:
- Phát Bồ-đề tâm: loại Bồ-đề của Bồ-tát ở giai vị Thập-tín phát tâm cầu Bồ-đề, tâm này là nhân đưa đến quả Bồ-đề.
- Phục tâm Bồ-đề: loại Bồ-đề của Bồ-tát ở giai vị Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập hồi-hướng do thực hành các ba-la-mật, chế phục phiền não, hàng phục tâm mình.
- Minh tâm Bồ-đề: loại Bồ-đề của Bồ-tát ở giai vị Đăng-địa đã liễu ngộ Thật tướng các pháp rốt ráo thanh tịnh, tức là tướng Bát-nhã ba-la-mật.
- Xuất đáo Bồ-đề: loại Bồ-đề của Bồ-tát ở giai vị Bất động địa, thiện huệ địa, Pháp vân địa; vị này ở trong Bát-nhã ba-la-mật được sức phương tiện, không chấp trước Bát-nhã ba-la-mật, diệt trừ phiền não trói buộc mà ra khỏi ba cõi, đến Nhất thiết trí.
- Vô thượng Bồ-đề: Bồ-đề của đấng Đẳng giác, Diệu giác đã chứng thành A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, tức giác trí của quả vị Phật.
Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu thì lấy Tứ hoằng thệ nguyện làm Bồ-đề tâm: 1.- Tùy sự phát tâm: do sự việc cụ thể mà phát. 2.- Thuận lý phát tâm: do chân lý phổ thông mà phát.
Thiên Thai tông còn lập ra 3 nghĩa Bồ-đề:
- Thật tướng Bồ-đề (Vô thượng Bồ-đề): Ngộ được chân tánh Bồ-đề thuộc lý thật tướng, ứng với đức Pháp thân.
- Thật trí Bồ-đề (Thanh tịnh Bồ-đề): ngộ được trí huệ thuộc lý khế hợp, ứng với đức Bát-nhã.
- Phương tiện Bồ-đề (Cứu cánh Bồ-đề): ngộ được tác dụng tự tại giáo hoá chúng sanh, 1ưng với đức Giải thoát.
Theo luận Đại Thừa Khởi Tín, sự phát tâm lược có ba món:
- Tín hoàn toàn (Tín thành tựu) mà phát tâm.
- Hiểu và Tu (giải, hạnh) mà phát tâm.
- Chứng nhập chơn-như mà phát tâm.
Trong Tín thành tựu mà phát tâm, có chỗ hỏi rằng: – Phải là người thế nào và nhờ tu hạnh gì để thành tựu vị Thập-tín, mới phát tâm được? Đáp: – những chúng sanh bất định, nhờ sức căn lành huân tập, đời trước làm cho họ tin nhơn quả, nên nhàm khổ sanh tử, phát tâm tu thập-thiện, để cầu đạo vô thượng Bồ-đề. Nhờ được đích thân hầu hạ, cúng dường chư Phật và tu hành trải qua muôn kiếp, nên họ mới đặng thành tựu tín tâm. Do nhơn duyên đó nên được gặp Phật, Bồ-tát dạy mà họ phát tâm; hoặc vì lòng đại bi mà họ tụ phát tâm ; hoặc vì thấy chánh pháp sắp diệt mà muốn duy trì nên họ tự phát tâm. Những người như thế, được vào hàng chánh định, trọn không thối chuyển. Có những chúng sanh, từ hồi nào đến giờ, căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy cũng gặp Phật cúng dường, song chỉ cầu phước báo cõi nhơn thiên, hoặc tu theo nhị-thừa, hoặc họ có cầu pháp đại-thừa, nhưng căn tánh chẳng quyết định, tấn thối không chừng ; hoặc họ cúng dường chư Phật mà chưa đấy một vạn kiếp. Những hạng người này cũng gặp nhơn duyên lành để phát tâm (như thấy sắc tướng của chư Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chư Tăng mà phát tâm, hoặc nhơn gặp hàng Nhị-thừa dạy bảo mà họ phát tâm, hoặc học với thầy bạn mà phát tâm). Nhưng các loại phát tâm này, đều chẳng nhứt định, nếu gặp hoàn cảnh xấu ngược thì họ thối tâm, hoặc đọa vào Nhị-thừa.
Tóm lại, khi tín tâm đã thành tựu, thì phát ba món tâm như sau:
- Trực tâm: nghĩa là tâm trực niệm chơn như.
- Thâm-tâm: nghĩa là tâm ưa làm các việc lành.
- Đại bi tâm: nghĩa là tâm muốn cứu khổ các chúng sanh.
Bồ-đề Tâm Luận thì lập ra bốn loại phát tâm:
- Tín tâm: tâm không có chút nghi ngờ đối với việc cầu thành Phật đạo, vì đây là nền tảng của muôn hạnh, nên gọi là bạch tịnh tín tâm.
- Đại bi tâm: sau khi phát bạch tịnh tín tâm rồi thì phát tứ hoằng thệ nguyện. Đại bi tâm này còn gọi là hạnh nguyện tâm, hạnh nguyện Bồ-đề tâm.
- Thắng nghĩa tâm: chọn lựa sự chân thật thù thắng trong các giáo pháp. Thắng nghĩa tâm này còn gọi là thắng Bát-nhã tâm, thắng nghĩa Bồ-đề tâm.
- Đại Bồ-đề tâm: ngay lúc quyết định bỏ cái kém liệt, chọn cái thù thắng, mười phương chư Phật liền hiện ra trước mắt chứng minh, chúng ma thấy việc nầy đều khiếp sợ mà thoái lui. Đại Bồ-đề tâm này còn gọi là Tam-ma-địa Bồ-đề tâm.
Phật dạy: “công-đức phát tâm rất rộng lớn sâu xa, không thể so lường. Chư Phật và Bồ-tát nói cũng không thể hết. Thiện-lực như vậy, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.”
Sáng nay trong lúc trì đại bi chú, chúng tôi đột nhiên nhận ra rằng mình làm muôn việc âu cũng chỉ vì một chuyện này thôi. Trước kia mỗi lần trì chú thường nghĩ đến oai lực của câu thần chú, sẽ giúp năng lực cho mình, đạt được thần thông, chỉ mong cầu những cái huyền bí. Nhân duyên hôm qua đọc cuốn Đại Bi Chú giảng giải của hòa thượng Tuyên Hóa mới biết được. Mỗi câu mỗi lời thảy đều là nói lên, bản thể, chân tướng, diệu dụng của Bồ-đề tâm.
Kinh Pháp Hoa nói: Chư Phật ra đời cũng chỉ vì một đại sự nhân duyên, vì muốn chúng sanh tỏ ngộ khai nhập Phật tri kiến, mà tri kiến tức là Bồ-đề tâm. Cho nên chẳng chi chẳng phải là Bồ-đề tâm. Trì chú không phải để phát huy năng lực thần bí, mà tiêu trừ nghiệp chướng để bảo trì việc này thôi. Tọa thiền cũng là an định lại việc này. Tụng kinh để tăng trưởng lý giải chỉ vì việc này. Làm bao nhiêu điều phước thiện cũng vì hỗ trợ cho việc này. Phật trọn đời lao nhọc đi khắp nơi hoằng truyền phật pháp cũng chính là việc này. Đem cái sơ phát tâm Bồ-đề đạt đến cứu cánh viên mãn Bồ-đề tâm.
Bây giờ chúng ta điểm sơ qua những hành trạng của chư Tổ, trong Pháp Bảo Đàn Kinh cảnh ngộ của Lục Tổ Huệ Năng bị Hạnh Xương đến hành thích, Tổ biết trước không những không giận trách còn đem vàng trao cho và hứa về sau sẽ độ cho người. Ngài Hám Sơn trong Đường Mây Trong Cõi Mộng bị Vua hiềm khích mà đày đi biên ải, còn bắt hoàn tục. Nhưng ngài vẫn một lòng hành đạo cho đến ngày được ân xá mà tâm ngài không hề có niệm oán trách. Hư Vân Đại Lão hòa-thượng trong thời cận đại bị chính phủ hiềm nghi, đánh đập, hành hạ nhưng ngài vẫn một lòng hướng Phật không thề than oán. Đến như cảnh giới của hàng Bồ-tát thì khỏi phải nói, như Bồ-tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa khi bị người đánh mắng ngài không những không giận mà còn chạy ra xa lớn tiếng kêu rằng: tôi chẳng dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật. Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật có đoạn nói về chuyện vua Ca-lợi vì nóng giận và ghen tức với vị tiên nhẫn nhục. Nên đã dùng gươm cắt tiết vị tiên nhẫn nhục ra từng phần. Nhưng vị tiên nhẫn nhục vẫn một lòng chịu đựng, không chút giận hờn còn phát nguyện: ngày tôi thành chánh giác người đầu tiên tôi độ là ông. Và lời nói hùng hồn đó đã chứng thật. Khi đức Thích-ca Mâu-ni Phật là đạo người đầu tiên ngài độ là A-nhã Kiều-trần-như, mà tiền thân là Ca-lợi-vương, còn vị tiên nhẫn nhục kia chính là tiền thân của Phật. Tích truyện nầy được tả rõ trong Kinh Đại Bát Niết-bàn ở Phẩm Sư-tử-hống Bồ-tát. Với những hoàn cảnh khắc nghiệt như thế, các ngài nương vào đâu để vượt qua được? đâu không phải là do nguyện lực của phát Bồ-đề tâm!
Theo thứ lớp tuần tự để Phát Bồ-đề tâm trong Lương Hoàng Sám Pháp thì trước hết phải hành đại sám hối, sửa lỗi cải quá khiến thân tâm thanh tịnh rồi mới phát được Bồ-đề tâm. Nếu không vậy thì phát Bồ-đề tâm kia chỉ là hư ngụy giả tạo, không chứng thực. Sau khi phát Bồ-đề tâm rồi thì phải Phát Nguyện. Phát nguyện tức là phải hành theo, làm những Phật, Bồ-tát dạy bảo, mình phải nguyện làm bao nhiêu công đức lành để đạt đến tuyệt đối Bồ-đề tâm. Muốn thành tựu rốt ráo viên mãn tâm Bồ-đề còn phải Phát-tâm hồi-hướng, tức là đồng cầu hết thảy chúng sanh được như mình không khác. Nếu còn thấy mình và chúng sanh là khác, chỉ riêng mình đắc độ thôi thì Bồ-đề tâm kia không trọn nên vậy.
Phát Bồ-đề tâm! một khi phát lên thì cả tam thiên đại thiên đều chấn động, chẳng phải việc thường. Chúng ta mỗi khi phát tâm lành trời đất đều hoan ca, chúng ta phát tâm ác cả Diêm vương kia còn nổi giận, chẳng phải chuyện thường. Quý vị có dịp xem kinh Diệt Tội Trường Thọ sẽ thấy được tường tận hơn. Đừng nghĩ rằng việc làm riêng ta thì dù là thiện ác, hay tốt xấu chẳng quan hệ đến ai. Tôi có sống chết chẳng có sao cả! không phải như thế đâu. Chỉ đơn cử chuyện hôn nhân gia đình thôi. Chuyện hôn nhân không phải là chuyện cá nhân của giữa hai người đâu, mà cả một gia đình, một xã hội, ảnh hưởng đến cả thế giới. Vì vậy mà ngày xưa việc chọn bạn trăm năm cho con cái ông bà mình đắn đo suy xét rất cẩn thận, thế mà còn không được trọn lành thay. Ngày nay tự do luyến ái, thương nhau. Nên thế giới ngày một tệ cũng chính bởi vì lý do này. Vì sao? cuộc sống của họ không ổn định, gia đình trở ngại buồn lo. Công việc ở công ty của họ cũng bị ảnh hưởng. tức xã hội có vấn đề. Sanh con ra, gia đình không hòa thuận thì biến thành sinh ly. Từ đó nảy sinh không biết bao nhiêu điều phiền phức, con cái họ lớn lên không người nuôi dưỡng, giáo dục tạo thành đứa côn đồ, làm bao nhiêu là việc… rồi từ đó gây nên không biết bao nhiêu việc rắc rối về sau nữa. Ở đây do vì bài viết có hạn, chỉ thoáng sơ chuyện hôn nhân thôi… nói kỹ ra ắt cả bài viết nho nhỏ này cũng không đủ. Hà huống chi nói chuyện phát Bồ-đề tâm, là phát đại tâm, hành đại nguyện, thành đại nhân.
Để thực tế hơn, chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện người Phật-tử chân chính thời nay được kể lại trong bài diễn văn của Chánh án Nguyễn Trọng Nho trong buổi đại lễ Phật Đản Pl.2550 tại chùa Bảo Quang – California, do chính ông ta đứng ra xử án từ bốn năm trước.
*
* *
Một người đàn bà trông dáng vẻ gầy gò, sắc mặt hãy còn xanh xám trông chừng y như một người đang bệnh. Bà ta đang đứng trước tòa với một vết sẹo lớn bị dao chém dài từ thái dương gần đến mang tai. Vết sẹo xem ra còn rất mới, hãy còn chưa lành hẳn, đường chỉ may vẫn còn lồ lộ chưa cắt. Quan viên tố tụng bước đến gần hỏi bà ta:
– Bà hãy nhìn kỹ người đàn ông đang đứng kia, có phải là người đã âm mưu sát hại bà chăng?
Người đàn bà đưa mắt nhìn người đàn ông hồi lâu, đôi dòng lệ từ từ ứa ra rồi chầm chậm quay lại thưa với viên quan tố tụng rằng:
– Thưa quan toà, không! Ông ta không phải là người âm mưu giết tôi. Lúc bấy giờ tôi bị bệnh, cảm thấy vô phương cứu chữa nên nhờ ông ta giúp tôi thôi.
Mọi người đang hiện diện trong phiên tòa đều ngẩn người. Quan chánh án nhìn xuống tập hồ sơ, lật lại những lời khai và những tang chứng đã gây án của phạm nhân. Nhưng khi nghe đến câu trả lời của nạn nhân, ông ta cũng giật mình như không còn dám tin vào tai của mình nữa. Quan chánh án nhìn kỹ lại người đàn bà, thấy bà ta tuy có vẻ bệnh hoạn thật nhưng tinh thần thì rất bình thường, sáng suốt. Và lời nói chẳng có mang âm hưởng gì là bị áp bức đe dọa, hay tráo trở cỡn bợt chút nào, vì chẳng ai dám đứng trước tòa mà có tư cách đó bao giờ. Ông Chánh-án định thần thấy trước ngực người đàn, trên cổ có đeo tượng đức Quán Thế Âm Bồ-tát, mới biết lời nói kia là thật, thật một cách không chê vào đâu được. Ông nhận ra rằng người đang đứng kia là hiện hữu của một lòng từ bi cực độ, một dáng dấp thân quen là hóa thân của đức Quan Thế Âm Bồ-tát. Bà đã thể hiện được những gì mà Phật, Bồ-tát đã giáo hóa. Bà thật sự đã làm được một phật-tử chân chánh, thuần thành đúng nghĩa.
Bấy giờ Quan chánh án thể hội được hành động vô cùng cao quý đó nên ông xúc động mạnh. Ông nhìn lại phạm nhân rồi chầm chậm đưa mắt nhìn khắp phiên tòa, một nơi mà cảnh vật thật chẳng còn lạ lùng gì đối với ông nữa, nhưng hôm nay ông thấy đâu đâu cũng hiển hiện bóng hình của Quán Thế Âm Bồ-tát. Bởi ông đã hiểu được người đàn bà đang hiện diện trước mặt ông đây là hiện thân tấm lòng từ bi của Bồ-tát, trong mắt người đã không còn nhìn thấy kẻ thù của mình, mà ai ai cũng đều là những con người thật đáng thương, đáng được cứu giúp…
* *
*
Hy vọng quý vị đọc đến chuyện này, học theo đức hạnh cao quý của họ. Đồng phát tâm dõng mãnh xả bỏ hận thù, nuôi dưỡng tánh đức thiện lương, khởi lòng từ bi hành thiện hạnh, phát Bồ-đề tâm. Chúng ta cùng nhau ngồi lại chỉnh đốn đạo tràng, phát huy đạo pháp. Nắm tay nhau một lòng hướng đến chân thiện mỹ tuệ, xây đắp cõi Ta-bà nhiều khổ lụy này thành Nhân gian Tịnh-độ. Ôi! như thế thì còn gì hạnh phúc bằng! Mong lắm thay!
Xin mọi người đồng niệm bài Phát tâm hồi hướng trong Lương Hoàng Sám Pháp:
“Nguyện xin mười phương tận hư-không giới vô lượng vô biên chư Phật, chư đại Bồ-tát, và hết thảy Hiền Thánh đều đem lòng từ-bi, đồng gia tâm che chở phù hộ cứu vớt chúng con, và chúng sanh, cho chúng con được mãn nguyện, tín tâm được kiên cố, phước đức ngày một cao dày, có từ tâm, nuôi dưỡng chúng sanh như nuôi đứa con một.
Khiến các chúng sanh ấy được bốn vô lượng tâm, sáu ba-la-mật, thập thọ tu thiền, tâm nguyện đầy đủ, móng tâm liền được thấy Phật như bà Thắng-man phu nhơn. Hết thảy hạnh nguyện hoàn toàn thành tựu, đồng như chư Phật, đồng đến Đạo-tràng, thành bậc Chánh-giác.”
– Đầu hè Bính Tuất, tháng 5 năm 2006 –